Sách giáo khoa là tài liệu có thẩm quyền - các ý tưởng, giá trị và quan điểm được đưa vào sách giáo khoa có ảnh hưởng lớn nếu xét đến lượng độc giả tiềm năng lớn của nó. Câu chuyện về bình đẳng giới không bao giờ cũ. Giới tính được bộc lộ trong diễn ngôn nữ tính (và nam tính) được xã hội xây dựng và sản sinh liên tục. Nghiên cứu này xem xét sự thể hiện giới tính trong sách giáo khoa tiếng Anh ở Việt Nam đương đại, cố gắng xóa bỏ những thành kiến có thể có, dù tinh vi và phức tạp đến mức nào. Áp dụng các lý thuyết văn hóa-xã hội cho rằng giới được cấu trúc về mặt xã hội, nghiên cứu sử dụng phân tích diễn ngôn phê phán và điều tra hệ tư tưởng/diễn ngôn có thể nhận biết được thông qua biểu hiện của nó trong các “dấu vết” ngôn.
Nghiên cứu đặt câu hỏi về quan niệm của chúng ta về giới tính, để xem xét cách thức hoặc thời điểm nữ tính hay nam tính được coi là nổi trội hơn. Cuộc phỏng vấn đối với những tác giả viết sách giáo khoa cho thấy việc viết bị ảnh hưởng bởi thành kiến có ý thức và vô thức nhưng họ đồng ý rằng bình đẳng giới là quan trọng, mặc dù niềm tin về sự thống trị của nam giới dường như vẫn ăn sâu vào xã hội. Nghiên cứu đặt ra câu hỏi về việc thách thức hiện trạng và tạo ra một câu chuyện văn hóa mới về việc công nhận và thực thi quyền của phụ nữ.
Cụ thể, kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù có những tín hiệu đáng khích lệ về bình đẳng giới, song nội dung vẫn bị ảnh hưởng bởi các chuẩn mực và thành kiến về giới đã ăn sâu bởi các giá trị Nho giáo truyền thống. Trong sách, cả nhân vật nữ và nam đều có mặt ở không gian riêng tư (trong nhà, trong phòng,...) và công cộng. Đáng chú ý nhất là nhân vật nữ bắt đầu xuất hiện trong các cuộc hội thoại về STEM nhiều hơn. Tuy nhiên, nam giới vẫn chiếm ưu thế trong các khía cạnh khác nhau của việc “hiện diện”, chiếm không gian lời nói lớn hơn và đóng vai trò chủ đạo hơn trong cuộc trò chuyện. Mặc dù, người ta bắt đầu thấy con trai bắt đầu làm một số công việc nhà nhiều hơn, nhưng hầu hết các bà mẹ và con gái đều phải đảm nhận công việc chăm sóc và các công việc gia đình khác, trong khi người cha hầu như vắng mặt trong lĩnh vực này.
Những định kiến về giới, cả có ý thức và vô thức, đối với trẻ em gái và phụ nữ trong các tài liệu giảng dạy có tác động tới việc trao quyền. Khi được trình bày trong các tài liệu giảng dạy, những thành kiến này có thể khiến người học hình thành hoặc củng cố những quan điểm hạn chế về các nhóm giới tính cụ thể, điều này có thể dẫn đến những kỳ vọng rập khuôn và thậm chí là phân biệt đối xử. Do đó, có thể cung cấp đào tạo theo chủ đề giới cho các tác nhân bao gồm người viết sách giáo khoa, nhà sản xuất, giáo viên và quản trị viên. Vai trò của giáo viên trong việc giải quyết các thách thức về giới cũng cần được công nhận và hỗ trợ. Cả hai công cụ nâng cao nhận thức và sư phạm khi làm việc với giới đều có thể được cung cấp để giáo viên không chỉ phát hiện những thành kiến về giới có thể có trong sách giáo khoa mà còn ban hành quyền tự quyết của họ trong việc sử dụng các yêu cầu trong sách giáo khoa để mời học sinh tham gia thảo luận và thực hiện bình đẳng giới.
Huyền Đức lược dịch
Nguồn: Vu, M. T., & Pham, T. T. T. (2023). Still in the shadow of Confucianism? Gender bias in contemporary English textbooks in Vietnam. Pedagogy, Culture & Society, 31(3), 477-497.