Chính sách quốc gia phát triển giáo dục và đào tạo có vai trò và tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của nền giáo dục trong các giai đoạn phát triển của đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia. Dựa theo Nghị quyết 29/TW-NQ về đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo, Trần Khánh Đức (2019) nhận định chính sách công trong lĩnh vực Giáo dục và đào tạo có các vai trò xã hội chủ yếu sau: (1) Vai trò đinh hướng; (2) Vai trò kiến tạo; (3) Vai trò tạo nguồn lực, động lực; (4) Vai trò phát triển.
- Vai trò định hướng: Chính sách thể hiện vai trò định hướng trong phát triển giáo dục và đào tạo ở nước ta qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là thông qua việc xác lập tính chất, mục tiêu và hướng phát triển cơ bản của hệ thống giáo dục quốc gia. Sau Cách mạng tháng 8/1945, chính sách phát triển giáo dục đã hình thành nền giáo dục mới, mang tính chất dân tộc, dân chủ, và tiến bộ. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước tại miền Bắc là giai đoạn của nền giáo dục XHCN, trong khi thời kỳ hiện nay đại diện cho nền giáo dục hiện đại, hội nhập quốc tế, với “định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo” và mục tiêu “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”.
- Vai trò kiến tạo: Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo ở nước ta được thể hiện thông qua việc xác lập mục tiêu và nội dung chính từng giai đoạn phát triển. Từ việc mục tiêu xóa mù chữ và kiến tạo nền giáo dục mới sau Cách mạng tháng 8/1945, tiến đến các mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, và bồi dưỡng nhân tài ở các giai đoạn tiếp theo. Giai đoạn hiện nay đặt ra mục tiêu xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, liên kết với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Nỗ lực đến năm 2030 là để nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
- Vai trò tạo nguồn lực, động lực: Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn lực và động lực cho quá trình phát triển giáo dục ở mỗi giai đoạn thông qua các nội dung và công cụ chính sách. Huy động và phân bổ các nguồn lực quốc gia, bao gồm tài lực, nhân lực, và vật lực, được thực hiện theo các chiến lược cụ thể. Nghị quyết 29/TW-NQ làm rõ vai trò của Nhà nước khi đặt ra "Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo." Ngân sách nhà nước dành tối thiểu 20% tổng chi ngân sách cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đồng thời tập trung nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Chính sách cũng đề cập đến việc đảm bảo kinh phí cho các cơ sở giáo dục công lập và hoàn thiện chính sách học phí. Ngoài ra, chính sách cũng chú trọng đến mặc lương cho giáo viên, ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và cung cấp phụ cấp tùy theo tính chất công việc và vùng địa lý, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên và cán bộ giáo dục. Điều này nhấn mạnh cam kết của Nhà nước đối với việc xây dựng một hệ thống giáo dục mạnh mẽ và bền vững.
- Vai trò phát triển: Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra những bước phát triển mới trong lĩnh vực này. Chủ trương phát triển giáo dục và đào tạo tiếp cận một cách toàn diện, bao gồm tính chất, mục tiêu, quy mô, chất lượng và hiệu quả của nền giáo dục. Qua từng giai đoạn, chính sách đã trải qua sự chuyển đổi từ việc mở rộng quy mô và tăng tỷ lệ biết chữ đến giai đoạn chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục và chất lượng nguồn nhân lực. Nội dung chủ yếu của chính sách này được xác định bởi các mục tiêu cụ thể như nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, và bồi dưỡng nhân tài. Chính sách cũng tập trung vào việc chuyển đổi quá trình giáo dục từ việc chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, thể hiện tầm quan trọng của việc kết hợp giáo dục lý luận với thực tiễn và liên kết giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội. Chính sách cũng nhấn mạnh sự liên kết giữa phát triển giáo dục và đào tạo với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, tiến bộ khoa học và công nghệ, và sự phù hợp với quy luật khách quan. Chuyển đổi từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả là một hướng đi quan trọng trong chính sách này, đồng thời đảm bảo đáp ứng yêu cầu về cả số lượng và chất lượng trong quá trình phát triển giáo dục và đào tạo.
Bạn đọc muốn tìm hiểu sâu sắc hơn có thể tìm đọc tài liệu tham khảo dưới đây.
Huyền Đức
Tài liệu tham khảo
Trần Khánh Đức (2019). Cơ sở khoa học đánh giá chính sách và vai trò xã hội của chính sách quốc gia trong lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo. Kỷ yếu hội thảo giáo dục Việt Nam 2019: Phát triển giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hội nhập quốc tế. NXB Lao động - Xã hội, tr 102-109.