Đài Loan là một trong những nền kinh tế thần kỳ ở Đông Á khởi đầu bằng những ngành công nghiệp đơn giản sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, trong ba thập kỷ qua, nước này đã thúc đẩy nền kinh tế của mình hướng tới các hoạt động “chuyên sâu tri thức” và đạt được những thành tựu ấn tượng). Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp bán dẫn ở Đài Loan là một phần quan trọng trong những thành tựu kinh tế ấn tượng đó. Đài Loan đã đạt được tiến bộ đáng kể trong ngành bán dẫn với các cơ quan chính phủ và quan chức là động lực thúc đẩy trong 30 năm qua.
Mặc dù ngành công nghiệp bán dẫn của Đài Loan mới bắt đầu chỉ với một vài hoạt động thử nghiệm và đóng gói chất bán dẫn vào cuối những năm 1960, tuy nhiên, đến cuối những năm 1990, Đài Loan đã lật đổ những gã khổng lồ công nghiệp châu Âu như Đức để trở thành nhà sản xuất chất bán dẫn lớn thứ tư thế giới sau Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Vào cuối những năm 1990, ngành chế tạo vi mạch và các hoạt động liên quan của nước này đã đạt doanh thu gần 10 tỷ USD, tương đương khoảng 7% tổng doanh thu thế giới (Amsden và Chu, 2003). Ngành công nghiệp vi mạch Đài Loan dự kiến sẽ tiếp tục phát triển nhanh chóng khi các khoản đầu tư chip bộ nhớ lớn bắt đầu được thực hiện vào những năm 2000.
Điều thú vị là, ít nhất là vào đầu những năm 1990, sự phát triển của ngành công nghiệp bán dẫn Đài Loan đã được chính phủ Đài Loan và các quan chức của nước này sắp đặt. Năm 1973, chính phủ Đài Loan thành lập Viện Nghiên cứu Công nghệ Công nghiệp (ITRI) và Tổ chức Dịch vụ và Nghiên cứu Điện tử (ERSO) để thúc đẩy sự phát triển của ngành bán dẫn. Kể từ đó, ITRI đã trở thành động lực thúc đẩy Đài Loan nâng cấp ngành công nghiệp bán dẫn của Đài Loan. Chính ITRI đã khởi động hai nhà máy chế tạo chip thành công nhất của Đài Loan: United Microelectronics Company (UMC) và Taiwan Semiconductor Manufacturing Company (TSMC).
Trong những năm đầu, ITRI đóng vai trò là bộ lọc công nghệ cho Đài Loan. Họ cử nhân viên của mình tham dự các hội nghị và triển lãm công nghệ và mang về Đài Loan những công nghệ mới nhất (Liu, 1993; Meaney, 1994). Và chính ITRI/ERSO đã ký thỏa thuận chuyển giao công nghệ với RCA, mua lại công nghệ IC 7-m và có được một nhóm 40 kỹ sư được đào tạo về RCA (Mathews và Cho, 2000). Vào cuối những năm 1980, việc chế tạo tấm bán dẫn có giá trị gia tăng cao cũng được ITRI khởi xướng và thúc đẩy. Năm 1980 khi ERSO tách khỏi công ty vi mạch chính thống đầu tiên của Đài Loan, UMC, doanh nghiệp tư nhân coi hoạt động kinh doanh chất bán dẫn là có rủi ro cao và từ chối tham gia.
Bên cạnh sự hỗ trợ về chính trị và kỹ thuật, nguồn tài trợ của chính phủ để phát triển ngành bán dẫn cũng rất đáng kể, ít nhất là trong giai đoạn đầu phát triển ngành bán dẫn. Vòng tài trợ công đầu tiên để xây dựng năng lực bán dẫn được cung cấp theo chương trình có tên là Chương trình Phát triển Công nghiệp Điện tử (EIDP). Tổng cộng 410 triệu Đài tệ (khoảng 11 triệu USD) đã được các cơ quan công chi tiêu, chủ yếu là ERSO. Giai đoạn II của Dự án Phát triển Công nghiệp Điện tử có nguồn tài trợ công là 786 triệu Đài tệ (khoảng 21 triệu USD).
Một trong những nguyên nhân thành công của ngành bán dẫn ở Đài Loan được chỉ ra là vai trò của Chính phủ và các quan chức Đài Loan. Nguyên nhân thứ hai là Chính phủ đã xây dựng được một mạng lưới cố vấn nước ngoài, hầu hết là các kỹ sư và nhà khoa học làm việc cho các công ty hàng đầu của Mỹ. Một số cố vấn là người Hoa ở nước ngoài và một số là người Mỹ và tất cả họ đều đã làm việc trong lĩnh vực vi điện tử và làm việc lâu dài cho các công ty điện tử hàng đầu, họ nắm rõ xu hướng công nghệ và công nghiệp, đồng thời họ cũng biết phải mất bao lâu để phát triển một con chip. thiết kế và chi phí cho một dự án bán dẫn là bao nhiêu. Ví dụ, hai cố vấn Bob Evans và Wen-yuan Pan lần lượt là những nhân vật lãnh đạo phụ trách phát triển chất bán dẫn tại IBM và RCA. Vì vậy, các quan chức chính phủ Đài Loan nắm rất rõ và khá đầy đủ về lĩnh vực này. Cùng với việc đầu tư lớn cho đào tạo, nghiên cứu, doanh nghiệp, một nguyên nhân từ phía quản trị cũng được chỉ ra là, trao quyền cho các công ty vi mạch non trẻ và sử dụng các liên doanh thay vì các doanh nghiệp nhà nước sở hữu 100% vốn để rút ngắn khoảng cách thông tin giữa người ủy quyền và người đại diện.
Độc giả tìm hiểu rõ hơn có thể đọc trong bài báo của Hongwu Sam Ouyang (2006) ở dưới đây.
Khánh Hà lược dịch
Tài liệu tham khảo
Ouyang, H. S. (2006). Agency problem, institutions, and technology policy: Explaining Taiwan's semiconductor industry development. Research Policy, 35(9), 1314-1328. https://doi.org/10.1016/j.respol.2006.04.013