Trong ngành bán dẫn, một số loại hình doanh nghiệp đã nhanh chóng tăng cường khả năng khác biệt hóa của mình, bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất thiết bị, chẳng hạn như bộ nhớ lưu trữ và các công ty toàn cầu trong hệ sinh thái ngành hỗ trợ ngành thiết bị, chẳng hạn như vật liệu, linh kiện và các sản phẩm liên quan đến thiết bị. các công ty cũng như các công ty thiết kế chuyên nghiệp. Nghiên cứu này điều tra các đặc điểm của chiến lược cạnh tranh, năng lực kỹ thuật số và hiệu suất quản lý như những động lực kỹ thuật số trong các doanh nghiệp thuộc ngành bán dẫn. Ban đầu, nghiên cứu này nhằm làm rõ các khái niệm và định nghĩa về động lực kỹ thuật số, năng lực kỹ thuật số, định hướng kỹ thuật số hoặc mô hình kinh doanh và hiệu suất quản lý. Chúng tôi cũng nhằm mục đích định lượng và phân tích mối tương quan giữa các yếu tố để xác định mức độ phù hợp của chuyển đổi kỹ thuật số.
Kết quả chỉ ra rằng các yếu tố thúc đẩy kỹ thuật số ảnh hưởng tích cực đến năng lực kỹ thuật số, từ đó, ảnh hưởng tích cực đến các mô hình kinh doanh lấy tính mới làm trung tâm và hiệu quả làm trung tâm. Về mối quan hệ giữa các mô hình kinh doanh này và hiệu quả quản lý, chỉ có mô hình kinh doanh lấy tính mới làm trung tâm mới có tác động tích cực đến hiệu quả phi tài chính. Những phát hiện này có thể giúp hình thành các chiến lược chuyển đổi kỹ thuật số liên quan đến sản phẩm/dịch vụ, quy trình và mô hình kinh doanh ở cấp độ công ty, cũng như thiết lập các chính sách như quy định và chương trình hỗ trợ ở cấp chính phủ. Cụ thể, một số kết quả có thể tóm lược như sau:
Thứ nhất, cả động lực kỹ thuật số bên trong và bên ngoài đều có tác động tích cực đến năng lực kỹ thuật số, từ đó có thể giúp phát triển sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
Thứ hai, năng lực kỹ thuật số tác động tích cực đến cả mô hình kinh doanh lấy hiệu quả làm trung tâm và mô hình kinh doanh lấy tính mới làm trung tâm. Các công ty khởi nghiệp ở Trung Quốc áp dụng mô hình kinh doanh lấy hiệu quả làm trung tâm, dựa vào các mối quan hệ lẫn nhau thay vì mô hình kinh doanh mang tính chuyển đổi khi mức độ quan hệ lẫn nhau tăng lên. Tuy nhiên, kết quả xác nhận rằng năng lực kỹ thuật số của các công ty tác động đến cả mô hình kinh doanh lấy hiệu quả làm trung tâm và lấy tính mới làm trung tâm.
Thứ ba, xét về mối quan hệ giữa các mô hình kinh doanh và hiệu quả quản lý, mô hình kinh doanh lấy tính mới làm trung tâm có tác động tích cực đến hiệu quả phi tài chính. Định hướng kỹ thuật số tác động đến hiệu quả tài chính và phi tài chính thông qua đổi mới kỹ thuật số và năng lực kỹ thuật số cũng tác động đến hiệu quả tài chính và phi tài chính. Ở các công ty liên quan đến vật liệu, linh kiện và thiết bị bán dẫn của Hàn Quốc cũng như các công ty thiết kế tuyệt vời, không có sự khác biệt đáng kể giữa mô hình kinh doanh lấy hiệu quả làm trung tâm và hiệu quả tài chính, vì doanh thu, lợi nhuận hoạt động và dòng tiền biến động lớn tùy thuộc vào mô hình đầu tư của khách hàng. Tuy nhiên, mô hình kinh doanh lấy sự mới lạ làm trung tâm có tác động tích cực đến hiệu quả quản lý phi tài chính, chẳng hạn như mức độ hài lòng của khách hàng cao hơn, thị phần cao hơn và tỷ lệ luân chuyển nhân viên thấp hơn.
Những phát hiện của nghiên cứu này có ý nghĩa đối với quá trình chuyển đổi kỹ thuật số của các công ty trong hệ sinh thái bán dẫn Hàn Quốc và những công ty trong lĩnh vực xây dựng năng lực. Như đã đề cập ở trên, các công ty vật liệu, linh kiện và thiết bị toàn cầu đã tăng cường khả năng khác biệt hóa và quản lý bền vững thông qua số hóa sản phẩm, số hóa phương thức vận hành và số hóa mô hình kinh doanh. Theo các động lực kỹ thuật số bên trong và bên ngoài của chuyển đổi kỹ thuật số, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hàn Quốc nhận thức được tầm quan trọng của năng lực kỹ thuật số và định hướng kỹ thuật số. Họ đã cố gắng liên kết những điều này với các mô hình kinh doanh nhưng chưa kết nối chúng với hiệu quả tài chính.
Khía cạnh quan trọng tiếp theo được chỉ ra là, chuyển đổi kỹ thuật số phải được chuẩn bị và thảo luận kỹ lưỡng ở cấp quốc gia hơn là cấp công ty. Phải nhấn mạnh sự hợp tác minh bạch và theo chiều ngang giữa chính phủ và các công ty và phải cung cấp sự hỗ trợ của chính phủ (ví dụ: luật pháp, quy định, hệ thống và chương trình hỗ trợ).
Ở khía cạnh xã hội, việc chấp nhận các công nghệ mới dựa trên kỹ thuật số và những thay đổi trong mô hình kinh doanh có thể góp phần tạo ra sự đổi mới trong các công ty. Ngoài ra, điều quan trọng là nhân viên phải giảm bớt mệt mỏi do làm việc kém hiệu quả, rút ngắn thời gian làm việc và cho phép quản lý theo thời gian thực.
Khánh Hà lược dịch
Nguồn: Kim, D., & Cho, K. (2022). Digital Transformation Characteristics of the Semiconductor Industry Ecosystem. Sustainability, 15(1), 483. https://doi.org/10.3390/su15010483