1. Thực hiện thành công mục tiêu kép - học tập an toàn trong dịch Covid-19
Đầu tháng 2/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 173/QĐ-TTg về việc công bố dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona gây ra. 63 tỉnh/thành phố ngay sau đó ra thông báo cho HS nghỉ học để phòng dịch. Gần 24 triệu HSSV của khoảng hơn 53.000 cơ sở GD&ĐT cả nước theo đó không thể đến trường.
Xác định chủ trương “tạm dừng đến trường, không ngừng việc học”, Bộ GD&ĐT đã ban hành các văn bản chỉ đạo Sở GD&ĐT, cơ sở giáo dục ĐH tăng cường các hình thức dạy học qua internet, trên truyền hình. Đây là lần đầu tiên việc dạy học trực tuyến được triển khai rộng rãi trên phạm vi toàn quốc.
Kết quả dạy học trực tuyến của Việt Nam được các tổ chức trong nước và quốc tế đánh giá rất tích cực. Báo cáo PISA của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) công bố ngày 29/9/2020 nhận xét: “Việc học trực tuyến để phòng-chống Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác”.
Cụ thể, Việt Nam có 79,7% HS được học trực tuyến. Tỷ lệ này cao hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%). Ở bậc ĐH, có trên 50% cơ sở giáo dục cũng dạy học từ xa, trong đó nhiều trường áp dụng trực tuyến hoàn toàn, một số cơ sở kết hợp giữa đào tạo trực tuyến và trực tiếp.
Để hỗ trợ công tác giáo dục cho các nhà trường trong điều kiện ảnh hưởng của dịch Covid-19; Bộ GD&ĐT đã điều chỉnh khung thời gian năm học; hướng dẫn tinh giản nội dung chương trình học kỳ 2 năm học 2019-2020. Khi HS quay trở lại trường, ngành Giáo dục đã nghiêm túc, trách nhiệm, áp dụng đồng bộ nhiều biện để đảm an toàn phòng chống dịch cho trường học.
Năm học 2019-2020 khép lại với thành công kép của ngành GD&ĐT trong thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn sức khoẻ của HS, giáo viên; đồng thời hoàn thành kế hoạch năm học. Gần 24 triệu HS, sinh viên cả nước; 1,5 triệu giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục các cấp, sau 2 đợt dịch Covid-19 bùng phát tại Việt Nam, đều an toàn trước dịch bệnh. Các nhà trường kết thúc chương trình giáo dục đáp ứng chuẩn yêu cầu đầu ra, đảm bảo tiến độ theo khung thời gian năm học đã quy định.
Kết quả của ngành GD&ĐT trong dạy học an toàn dịp Covid-19, được Quốc hội, Chính phủ đánh giá cao. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trong Hội nghị trực tuyến toàn quốc ngành Giáo dục năm 2020 đã gọi đây là “kết quả nổi bật” của ngành.
Nhiều tổ chức quốc tế cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ trước những nỗ lực và thành quả của giáo dục Việt Nam trong cuộc chiến với Covid 19.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã đến thăm, động viên học sinh, giáo viên Trường THPT Phan Đình Phùng (Hà Nội) trong ngày đầu đến trường sau thời gian tạm nghỉ phòng, chống dịch Covid-19.2. Việt Nam nêu gương tốt về tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH trong đại dịch Covid
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 phải lùi 1 tháng so với thông lệ đầu tháng 7 hằng năm. Tuy nhiên, 20 ngày trước lịch thi, Việt Nam đối mặt với đợt bùng phát Covid-19 thứ hai. Lần này, không xác định được nguồn lây trong cộng đồng; dịch diễn tiến nhanh, lan rộng ở Đà Nẵng, Quảng Nam và các tỉnh thành lân cận.
Người dân, xã hội băn khoăn, lo lắng việc có nên tổ chức kỳ thi mà số lượng thí sinh tham gia ở các tỉnh thành trên cả nước lên đến 860.000; làm thế nào để đảm bảo an toàn phòng chống dịch cho người dự thi, người làm công tác thi và rộng ra là cả cộng đồng? Bài toán khó được đề ra cho Bộ GD&ĐT.
Giải quyết bài toán này, Bộ GD&ĐT xác định đặt an toàn sức khỏe của HS và cộng đồng lên trên hết, nhưng đồng thời phải đảm bảo cho được quyền lợi và sự công bằng trong tốt nghiệp THPT, trong tuyển sinh ĐH.
“Chúng ta phải coi trọng sức khỏe của thí sinh, phụ huynh, cán bộ, giáo viên, nhân viên… tham gia làm thi, rộng hơn là coi trọng sức khỏe của cộng đồng. Tuy nhiên, không vì không đủ thông tin hoặc vì một số khó khăn mà có những quyết định không được cân nhắc kỹ”, Bộ trưởng GD&ĐT phát biểu tại hội nghị trực tuyến với 63 Ban Chỉ đạo thi tốt nghiệp THPT năm 2020 (ngày 31/7/2020).
Cân nhắc kỹ lưỡng thực tế diễn biến dịch bệnh, trên cơ sở tham khảo ý kiến của ngành Y tế và thực tế chuẩn bị cũng như sự đề xuất của địa phương đối với việc tổ chức thi, Bộ GD&ĐT quyết định vẫn tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT 2020 nhưng chia thành 2 đợt. Đợt 1 - thi theo đúng lịch đã thông báo là vào đầu tháng 8, dành cho các thí sinh không liên quan đến dịch bệnh. Đợt 2 dành cho thí sinh của các địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội, thí sinh thuộc diện F1, F2.
Các công văn hướng dẫn tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 trong điều kiện dịch Covid-19 diễn biến phức tạp; công văn hướng dẫn các trường xây dựng phương án phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh hợp lý cho thí sinh phải tham gia thi đợt 2... được Bộ GD&ĐT khẩn trương ban hành. Các đoàn kiểm tra, thanh tra của Bộ GD&ĐT “căng mình” đi các địa phương để nắm bắt thực tế việc chuẩn bị, triển khai cho Kỳ thi, nhưng quan trọng hơn là để đồng hành và hỗ trợ các địa phương trong việc tổ chức Kỳ thi an toàn tuyệt đối cả về an ninh, an toàn sức khỏe, nghiêm túc và công bằng.
Chủ trương đúng, cách làm khoa học, cùng sự quyết tâm, nỗ lực cao của toàn ngành GD&ĐT, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, 2 đợt của Kỳ thi Tốt nghiệp THPT 2020 kết thúc và đạt được cả 2 mục tiêu: đảm bảo an toàn phòng chống dịch; đảm bảo nghiêm túc, khách quan, đúng quy chế. Quyền lợi, sự công bằng trong xét tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH của 860.000 thí sinh theo đó cũng được đảm bảo.
Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 khép lại với sự ghi nhận và đánh giá cao của các tầng lớp nhân dân, của Quốc hội, Chính phủ. Các nước trong khu vực và quốc tế cũng bày tỏ sự khâm phục với quyết định dũng cảm và việc tổ chức thành công kỳ thi cấp quốc gia của Việt Nam.
Tiếp nối thành công của Kỳ thi tốt nghiệp THPT, công tác tuyển sinh ĐH, CĐ đào tạo ngành Giáo dục Mầm non năm 2020 cũng đạt nhiều kết quả tích cực dù đối mặt với những khó khăn đến từ đại dịch Covid-19 và các đợt bão lũ liên tiếp ở miền Trung.
Bộ GD&ĐT đã điều chỉnh kế hoạch và chỉ đạo sát sao công tác tuyển sinh. Việc xét tuyển sinh ĐH đợt 1 được sử dụng kết quả gộp chung của cả 2 lần thi tốt nghiệp THPT để đảm bảo sự công bằng cho tất cả thí sinh tham dự các đợt thi này. Các cơ sở giáo dục ĐH phối hợp thực hiện công tác xét tuyển, quy trình xét tuyển nhẹ nhàng dựa vào phần mềm do Bộ GD&ĐT hỗ trợ nên hạn chế tối đa thí sinh ảo trúng tuyển tại các trường…
Việc tự chủ tuyển sinh cũng được cơ sở giáo dục đẩy mạnh. Các nhà trường đã chủ động xác định chỉ tiêu, đa dạng hoá phương thức tuyển sinh và lựa chọn thời gian tuyển sinh phù hợp với yêu cầu riêng của từng đơn vị. Điều này mang lại nhiều lợi ích cho thí sinh khi có nhiều hơn các lựa chọn phương thức xét tuyển để đăng ký cho phù hợp với điều kiện và nguyện vọng của bản thân.
3. Chuyển biến tích cực trong đổi mới phương pháp dạy và học với chương trình GDPT mới
Năm học 2020-2021, giáo dục Việt Nam bắt đầu triển khai chương trình, sách giáo khoa GDPT mới đối với lớp 1.
Chương trình được xây dựng theo hướng mở, lấy HS làm trung tâm; chuyển mục tiêu giáo dục từ chú trọng truyền thụ kiến thức sang hình thành và phát triển phẩm chất cho HS. Nội dung giáo dục được đổi mới theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực; giảm kiến thức hàn lâm, tăng cường thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chương trình, sách giáo khoa hướng tới việc phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, khả năng tự học của học trò; tăng cường tính tương tác trong dạy và học giữa thầy với trò, giữa học trò với học trò và giữa các thầy cô giáo. Phương pháp và hình thức dạy học, kiểm tra đánh giá theo đó cũng được đổi mới mạnh mẽ.
Để chuẩn bị cho việc thực hiện chương trình mới, trước đó, Bộ GD&ĐT đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành hệ thống các văn bản chỉ đạo, kế hoạch triển khai, bảo đảm chuẩn bị đồng bộ các điều kiện về đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất... 5 bộ sách giáo khoa lớp 1 với 46 đầu sách của đầy đủ 8 môn học/hoạt động giáo dục bắt nuộc và sách giáo khoa môn tự chọn Tiếng Anh, được Bộ GD&ĐT thẩm định, phê duyệt. 45.000 cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên cốt cán các cấp từ tiểu học đến THPT được bồi dưỡng cấp Bộ về thực hiện chương trình GDPT mới. Trước khai giảng năm học mới, toàn bộ giáo viên dạy lớp 1 năm học 2020-2021 cũng hoàn thành bồi dưỡng về chương trình và sử dụng sách giáo khoa GDPT 2018.
Qua gần 1 học kỳ triển khai, chương trình GDPT 2018 đã bước đầu “thổi làn gió” tích cực vào công tác dạy - học của các nhà trường. Những tiết học của HS lớp 1 giờ trở nên sôi động hơn với nhiều hoạt động giáo dục được tổ chức nhằm tạo sự hứng thú học tập cho HS, quan trọng hơn là để các em được tự tìm tòi, khám phá và chiếm lĩnh tri thức; từ đó hình thành phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết.
Đối với các giáo viên khi dạy theo chương trình mới, dù ban đầu khá vất vả do HS chưa có thời gian làm quen nề nếp học tập, nhưng sau một thời gian, các thầy cô cảm thấy thoải mái, vui vẻ, thích thú với chương trình này. Giáo viên được chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch giảng dạy; không bị ràng buộc bởi sách giáo khoa hay lo “cháy giáo án”. Thầy cô được tự chủ, linh hoạt, sáng tạo triển khai các phương pháp dạy học tích cực phù hợp với năng lực của bản thân và nhận thức của HS hay, để từ đó phát huy tính chủ động, tích cực của học trò; làm cho mỗi tiết học trở thành một giờ vui của các HS và chính giáo viên.
Thời gian đầu triển khai chương trình mới, có một số phản ánh về sách giáo khoa môn Tiếng Việt nặng; một số ngữ liệu chưa phù hợp với HS lớp 1. Những vấn đề này đã được Bộ GD&ĐT nhanh chóng chỉ đạo các đơn vị chuyên môn, đơn vị xuất bản khắc phục, tiếp thu, điều chỉnh. Những quy định về biên soạn, thẩm định sách giáo khoa cũng được Bộ chỉnh sửa để đảm bảo sách giáo khoa các lớp học sau có chất lượng tốt hơn.
4. Giáo dục tiểu học Việt Nam đứng đầu các nước Đông Nam Á
Trong 6 nước tham gia Chương trình Đánh giá kết quả học tập của HS tiểu học các nước Đông Nam Á (SEA PLM) năm 2019, gồm: Việt Nam, Lào, Campuchia, Malaysia, Myanmar, Phillipine, HS tiểu học Việt Nam đứng đầu ở cả 3 năng lực được khảo sát là: Đọc hiểu, Viết, Toán học.
Cụ thể ở lĩnh vực Đọc hiểu, bài khảo sát của SEA PLM đo lường năng lực HS ở 6 mức độ, thì HS Việt Nam đạt mức năng lực trung bình cao nhất là 6/6. Tỷ lệ HS Việt Nam đạt được mức năng lực thứ 6 là 82%. Malaysia đứng thứ hai với 58% HS đạt được mức năng lực thứ 6. Các nước còn lại tỷ lệ đều dưới 10%.
Ở lĩnh vực Viết, bài khảo sát của SEA PLM đo lường năng lực HS ở 8 mức độ. HS Việt Nam đạt mức năng lực trung bình là 6/8. Tỷ lệ HS đạt mức năng lực thứ 8 là 20%. Tỷ lệ này ở các nước còn lại là 2-4%.
Ở lĩnh vực Toán học, SEA PLM đo lường năng lực HS ở 9 mức độ. HS Việt Nam có mức năng lực trung bình là 8/9. Tỷ lệ các em đạt được mức năng lực cao nhất (mức 9) là 42%. Các nước còn lại, tỷ lệ này đều dưới 10%.
5. HS Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế trên đấu trường Olympic khu vực, quốc tế
Năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến hầu hết các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế phải tổ chức bằng hình thức trực tuyến. Điều này dẫn đến một số điều chỉnh trong cách thi, bài thi; nhưng công tác tổ chức, kiểm tra, giám sát rất chặt chẽ; đảm bảo tính công bằng, nghiêm túc, khách quan, độ chính xác về kết quả. Việt Nam sau những cân nhắc đã quyết định tiếp tục cử đội dự thi.
Tiếp nối những kết quả đạt được trong các năm trước, năm 2020 HS Việt Nam đã đạt nhiều thành tích đáng nể trên đấu trường trí tuệ thi Olympic khu vực và quốc tế. 24/24 thí sinh Việt Nam tham dự các kỳ thi này đều đoạt đoạt giải; trong đó có 9 huy chương Vàng, 8 huy chương Bạc, 5 huy chương Đồng và 2 bằng khen.
Những kết quả trên tiếp tục khẳng định vị thế của HS phổ thông Việt Nam trên đấu trường trí tuệ quốc tế. HS Việt Nam không chỉ đạt thành tích cao ở những nội dung lý thuyết mà kết quả phần thi thực hành cũng có nhiều cải thiện đáng kể. Thành tích trên cho thấy hướng đi đúng của ngành Giáo dục, sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Bộ GD&ĐT trong công tác tuyển chọn, bồi dưỡng HS giỏi; sự nỗ lực, cố gắng của các nhà trường, các HS, thầy cô giáo trong công tác tuyển chọn, bồi dưỡng HS giỏi trong thời gian qua.
6. Cơ sở giáo dục ĐH liên tiếp lọt vào bảng xếp hạng uy tín thế giới
Năm học 2019-2020, giáo dục ĐH Việt Nam đã có sự chuyển mình rõ rệt trong nỗ lực vươn cao với tinh thần tự chủ, trách nhiệm và đạt được nhiều kết quả ấn tượng.
Bên cạnh việc tiếp tục duy trì số lượng và thứ hạng trong các bảng xếp hạng ĐH uy tín thế giới như Quacquarelli Symonds World University Rankings (QS, Vương quốc Anh), World University Rankings của tạp chí Times Higher Education (THE), Việt Nam lần đầu tiên có 4 cơ sở giáo dục ĐH lọt vào tốp 1.000 trường ĐH hàng đầu thế giới, theo xếp hạng 2021 Best Global Universities Rankings của tạp chí US New & Word Report (Mỹ).
Các trường này gồm: Trường ĐH Tôn Đức Thắng, xếp thứ 623; ĐH Quốc gia Hà Nội, xếp thứ 949; ĐH Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, xếp thứ 1.271; Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, xếp thứ 1.356.
2 ĐHQG của Việt Nam trong năm 2020 cũng được vào tốp 101-150 trường ĐH trẻ tuổi (thành lập dưới 50 năm) có chất lượng giáo dục hàng đầu thế giới, theo xếp hạng của Tổ chức QS. Trường ĐH Bách khoa Hà Nội lần đầu tiên và là đại diện duy nhất của Việt Nam xuất hiện trong tốp 200 của bảng xếp hạng các trường ĐH trong “độ tuổi vàng” (THE Best ‘Golden Age’ universities).
Trong Bảng xếp hạng những ĐH có ảnh hưởng nhất đến sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu - THE Impact Rankings, năm 2020, Việt Nam có thêm Trường ĐH Bách khoa Hà Nội cùng với Trường ĐH Tôn Đức Thắng có tên trong bảng xếp hạng này và 2 trường ĐH của Việt Nam đều nằm trong top 301-400.
Nhiều ngành, lĩnh vực đào tạo của Việt Nam được đứng trong tốp 500 thế giới. Số lượng báo cáo khoa học của Việt Nam công bố trên các ấn phẩm quốc tế có uy tín tăng đáng kể với 12.475 bài, đứng thứ 49 thế giới. Cũng trong năm 2020, lần đầu tiên một tạp chí khoa học của Việt Nam được lọt vào danh sách 25% tạp chí khoa học uy tín nhất thế giới. Đó là tạp chí Vật liệu và linh kiện tiên tiến (JSAMD) của ĐHQG Hà Nội được xếp vào nhóm những tạp chí khoa học uy tín nhất (nhóm Q1) về lĩnh vực vật liệu composite và vật liệu từ, điện tử, quang.
7. Chuyển đổi số giúp thay đổi diện mạo ngành giáo dục
Những năm qua, đặc biệt là năm 2020 chuyển đổi số trong giáo dục đã bước một bước tiến dài để hướng đến mục tiêu “Việt Nam đi tiên phong và trở thành một trong những quốc gia đi đầu trong chuyển đổi số về GD-ĐT”.
Lần đầu tiên, một cở sở dữ liệu ngành được hình thành; theo đó, ngành Giáo dục đã hoàn tất việc số hóa, gắn mã định danh cho hơn 53.000 cơ sở giáo dục đào tạo, 24 triệu HS, sinh viên và 1,4 triệu giáo viên. Đồng thời, xây dựng và phát triển kho học liệu số dùng chung (bao gồm cả học liệu mở) với khoảng 5.000 bài giảng e-learning, 2.000 video bài giảng trên truyền hình, 200 thí nghiệm ảo, 200 đầu sách giáo khoa, 35.000 câu hỏi trắc nghiệm và trên 7.500 luận án tiến sĩ.
Nhiều chính sách chuyển đổi số đã được ban hành và tác động tích cực tới quá trình chuyển đối số trong giáo dục và đào tạo. Đáng kể nhất là việc chuyển đổi quản lý, tổ chức đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến, phát triển hệ thống MOOCs ở các trường ĐH; triển khai mô hình ứng dụng CNTT trong trường phổ thông, hướng dẫn dạy học trên truyền hình, Internet, công nhận kết quả dạy học qua mạng, sử dụng sổ điểm điện tử, học bạ điện tử,...
Để thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục, Bộ GD&ĐT và Bộ Thông tin và Truyền thông đã ký kết Chương trình hợp tác triển khai Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, qua đó 2 Bộ sẽ cùng các doanh nghiệp số phát triển các nền tảng số dùng chung trong giáo dục; huy động các doanh nghiệp chung tay hỗ trợ các nhà trường, giáo viên và HS những điều kiện để triển khai chuyển đổi số như: đường truyền Internet, phần mềm quản lý, phần mềm dạy học trực tuyến, trang thiết bị đầu cuối, …
Dự kiến, trong thời gian tới, các cơ sở dữ liệu toàn quốc về giáo dục đào tạo sẽ được hoàn chỉnh đầy đủ phục vụ công tác phân tích, dự báo và ra chính sách quản lý ngành; kho học liệu số, học liệu mở được xây dựng theo chương trình giáo dục của tất cả các môn học; các cơ sở đào tạo lên được kế hoạch tổ chức đào tạo trực tuyến và nâng cao tỷ trọng đào tạo trực tuyến; các cơ sở giáo dục đào tạo sẽ đẩy mạnh ứng dụng CNTT, tận dụng tối đa lợi thế công nghệ số để đổi mới các mô hình, cách thức tổ chức dạy học để việc học sẽ trở nên dễ dàng hơn với HS, sinh viên, nâng cao tính cá thể hóa học tập, cơ hội học tập được mở rộng đối với những HS, sinh viên ở khu vực còn khó khăn.
8. Toàn ngành ra sức hỗ trợ các nhà trường, thầy cô và HS miền Trung vượt qua bão lũ
Trong hai tháng 10, 11 năm 2020, các tỉnh miền Trung đã chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, bão chồng bão, lũ chồng lũ, thiệt hại nặng nề về người và của. Với sự đồng hành của cả hệ thống chính trị và người dân cả nước, trong đó có toàn ngành Giáo dục, các tỉnh miền Trung đã nỗ lực và kịp thời khắc phục thiệt hại, vượt qua bão lũ.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, các Thứ trưởng, Công đoàn Giáo dục Việt Nam đã đi kiểm tra tình hình mưa lũ, trực tiếp thăm hỏi, động viên thầy và trò, hỗ trợ tiền, tặng sách giáo khoa, bàn ghế, thiết bị dạy học cho ngành Giáo dục các tỉnh miền Trung.
Chia sẻ những mất mát, thiệt hại của ngành Giáo dục các tỉnh miền Trung, ngoài những hỗ trợ trực tiếp, Bộ GD&ĐT đã tổ chức phát động quyên góp trong toàn ngành và kêu gọi ủng hộ đồng bào các tỉnh miền Trung vượt qua khó khăn cả trong giai đoạn trước mắt và lâu dài; đảm bảo HS vùng lũ khi đến trường có đủ sách vở, đồ dùng học tập tối thiểu, hoàn thành tốt kế hoạch nhiệm vụ năm học 2020-2021.
Xuất phát từ tinh thần tương thân tương ái và trách nhiệm xã hội, các đơn vị trực thuộc Bộ; các ĐH, trường ĐH, CĐ; các cơ quan, doanh nghiệp; sở giáo dục và đào tạo các tỉnh, thành phố và các đối tác trong nước và quốc tế của Bộ GD&ĐT đã chủ động, tích cực chung tay hỗ trợ giáo viên, HS vùng lũ bằng nhiều phương thức. Các cơ quan, đơn vị và cá nhân quyên góp, ủng hộ bằng tiền, bàn ghế, thiết bị dạy học, đồ chơi trẻ em,... đảm bảo thiết thực, đúng đối tượng để hỗ trợ HS bị ảnh hưởng mưa lũ. Bên cạnh quyên góp, ủng hộ tiền, quần áo, sách vở,… các ĐH, trường ĐH, CĐ đã rà soát, nghiên cứu xem xét miễn, giảm học phí cho sinh viên đến từ các địa phương bị ảnh hưởng mưa lũ.
9. Những cải cách mạnh mẽ giúp giảm áp lực cho giáo viên
Cả nước hiện có gần hơn 1,4 triệu giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, đây là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục và quyết định thành bại của công cuộc đổi mới giáo dục. Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ từng khẳng định sẽ nỗ lực để “giảm áp lực cho giáo viên”, và năm 2020 đã ghi nhận những cải cách mạnh mẽ, thực thi quyết tâm này.
Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, đảm bảo thực thi nghiêm chỉ thị về việc chấn chỉnh tình trạng lạm dụng hồ sơ, sổ sách trong nhà trường do Bộ GD&ĐT ban hành năm 2019, gỡ bỏ những quy định về sổ sách không cần thiết, giúp giáo viên tập trung đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục. Trong đó, yêu cầu các địa phương, cơ sở giáo dục tuyệt đối không được quy định thêm hoặc yêu cầu giáo viên có thêm các loại hồ sơ, sổ sách ngoài quy định. Bộ GD&ĐT cũng khuyến khích tăng cường sổ sách điện tử nhằm tạo chuyển biến trong việc giảm hồ sơ, sổ sách cho giáo viên.
Để hạn chế tối đa gánh nặng sổ sách cho giáo viên đầu năm học 2020-2021, Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư 32/2020/TT-BGD&ĐT về điều lệ Trường THCS, THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học. Theo điều lệ mới, tính tự chủ, dân chủ của nhà trường trong việc xây dựng và thực hiện chương trình giáo dục được tăng cường mạnh mẽ. Vì vậy, sổ sách của giáo viên tiếp tục được giảm thiểu đáng kể.
Bộ GD&ĐT cũng đã quyết liệt giảm áp lực cho giáo viên thông qua nhiều chính sách khác như: Cắt bỏ nhiều cuộc thi không thiết thực đối với HS; thay đổi quy định về hội thi giáo viên dạy giỏi để tạo thành hoạt động sinh hoạt chuyên môn; thay đổi quy định về kiểm tra, đánh giá, nhận xét HS theo hướng nhẹ nhàng, linh hoạt.
Đáng chú ý, gánh nặng về chứng chỉ tin học, ngoại ngữ không phù hợp cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đội ngũ giáo viên. Sự vất vả tốn kém từ những chứng chỉ này đã khiến giáo viên thêm áp lực, khó khăn khi theo đuổi nghề nghiệp. Để gỡ bỏ khó khăn này cho giáo viên, Bộ GD&ĐT đã làm việc với Bộ Nội vụ để đi tới thống nhất, sẽ xóa bỏ chứng chỉ ngoại ngữ và tin học cho giáo viên.
Hiện nay, Bộ GD&ĐT đã hoàn tất các quy trình soạn thảo văn bản để ban hành các thông tư quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương giáo viên mầm non, phổ thông công lập; trong đó, tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng sẽ không còn yêu cầu giáo viên phải có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học; không quy định giáo viên dạy ngoại ngữ phải có ngoại ngữ thứ 2; không quy định giáo viên dạy vùng dân tộc thiểu số phải có chứng chỉ dạy tiếng dân tộc. Dự kiến các thông tư này sẽ có hiệu lực từ tháng 2-2021.
Nguồn tin: giaoducthoidai.vn