
Ảnh minh hoạ
Ngành Giáo dục cần nguồn lực đầu tư lớn
Trong bối cảnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Mới đây, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội đã thảo luận về chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hoá, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035.
Việc đầu tư này không chỉ nhằm kiên cố hóa và hiện đại hóa cơ sở vật chất như trường lớp, phòng học, trang thiết bị dạy học mà còn hướng tới đổi mới phương pháp dạy học, phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên và quản lý, đồng thời từng bước đưa giáo dục Việt Nam hòa nhập với tiêu chuẩn quốc tế.
Tờ trình của Chính phủ gửi Quốc hội cho biết chương trình được dự kiến huy động hơn 580.000 tỷ đồng để thực hiện trong vòng 10 năm tới (2026-2035). Về nguồn vốn, ngân sách Trung ương được đề xuất đóng góp khoảng 349.113 tỷ đồng, ngân sách địa phương khoảng 115.773 tỷ đồng, các cơ sở đào tạo (giáo dục nghề nghiệp, đại học) đóng góp đối ứng khoảng 89.073 tỷ đồng, cùng các hình thức huy động hợp pháp khác.
Chương trình được chia thành hai giai đoạn chính: giai đoạn 2026-2030 và giai đoạn 2031–2035. Trong đó, giai đoạn đầu dự kiến huy động tối thiểu khoảng 174.673 tỷ đồng; giai đoạn sau khoảng 405.460 tỷ đồng. Mục tiêu tổng quát của Chương trình là chuẩn hóa, hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo, tạo bước chuyển căn bản, mạnh mẽ về chất lượng giáo dục; đồng thời đảm bảo mở rộng cơ hội học tập cho mọi người dân, bảo đảm công bằng tiếp cận giáo dục.
Nội dung chính và hướng đầu tư
Chương trình đặt ra nhiều mục tiêu. Trước hết, có kế hoạch kiên cố hóa trường lớp từ mầm non đến phổ thông, đảm bảo an toàn, đủ phòng học, trang thiết bị. Song song với đó là đầu tư trang thiết bị dạy học hiện đại: phòng máy tính, thiết bị STEM/STEAM, phòng thí nghiệm, thư viện, cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu đổi mới. Song hành với cơ sở vật chất là việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo: phát triển giáo dục nghề nghiệp, đào tạo đại học chất lượng cao, đầu tư vào đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Một trong những định hướng quan trọng là phát triển giáo dục theo chuẩn quốc tế: đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai tại trường học, phát triển chương trình STEM/STEAM, thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục, mở rộng hợp tác quốc tế và đổi mới phương pháp, nội dung giảng dạy. Ngoài ra, chương trình cũng hướng tới mở rộng cơ hội học tập, đảm bảo mọi người, mọi vùng miền, mọi đối tượng đều có thể tiếp cận giáo dục chất lượng. Đây là yếu tố rất quan trọng để thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, các nhóm dân cư, bao gồm cả trẻ em con công nhân, lao động di cư tại các khu đô thị, khu công nghiệp.
Cơ cấu phân bổ vốn và tính khả thi
Dù quy mô lớn và mục tiêu rộng khắp, một số đại biểu Quốc hội đã nêu lên những băn khoăn về cơ cấu phân kỳ vốn của chương trình. Theo đó, phần lớn nguồn lực (khoảng 70%, tức hơn 405.000 tỷ đồng) được tập trung cho giai đoạn 2031-2035, trong khi giai đoạn 2026–2030 chỉ có khoảng 174.000 tỷ đồng (30%). Điều này khiến nhiều mục tiêu nền tảng như kiên cố hóa phòng học, xây dựng nhà công vụ cho giáo viên tại địa bàn khó khăn, xây dựng các trường bán trú/ nội trú, bổ sung giáo viên, đầu tư các trường nghề, đại học trọng điểm có nguy cơ không đạt được nếu đầu tư không đủ mạnh.
Một số đại biểu đề xuất cần tăng tỷ trọng vốn cho giai đoạn 2026-2030, nhằm đảm bảo các mục tiêu mang tính căn bản từ cơ sở vật chất đến tổ chức được thực hiện sớm, tạo nền tảng vững chắc cho các giai đoạn sau.
Bên cạnh đó, để tránh tình trạng “xin - cho”, lãng phí, đầu tư dàn trải hay không đúng nhu cầu, nhiều đại biểu nhấn mạnh cần thiết lập cơ chế phân bổ và giải ngân gắn với kết quả đầu ra có thể đo lường. Ví dụ số phòng học kiên cố đưa vào sử dụng, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn, số học sinh được tiếp cận chương trình nâng cao, mức độ chuyển đổi số của cơ sở giáo dục…
Nếu được thực hiện nghiêm túc, chương trình có thể mang lại bước nhảy vọt về chất lượng và quy mô, giúp hệ thống giáo dục Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, chuyển đổi số.
Đây là cơ hội để thu hẹp khoảng cách không chỉ giữa vùng miền, mà cả giữa các nhóm dân cư: học sinh thành thị, nông thôn, con em lao động; tạo ra môi trường giáo dục công bằng, hiện đại, giúp mỗi công dân có cơ hội phát triển toàn diện. Ngoài ra, với chú trọng vào giáo dục nghề nghiệp, chuyển đổi số, chuẩn quốc tế, Việt Nam có thể đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế, công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, quá trình triển khai chương trình đặt ra không ít thách thức. Việc phân bổ vốn cần cân nhắc kỹ. Cơ chế giám sát, phân bổ, giải ngân cần minh bạch, rõ ràng, tránh lãng phí, đầu tư không đúng nhu cầu. Đặc biệt, chính sách ưu tiên, hỗ trợ cụ thể cho các nhóm yếu thế phải được thiết kế cẩn trọng và thực thi nghiêm túc để đảm bảo công bằng tiếp cận giáo dục.
Đầu tư cần đi cùng với minh bạch và trách nhiệm
Việc dành nguồn lực lớn đầu tư vào giáo dục cho thấy tầm quan trọng của giáo dục trong tiến trình phát triển đất nước. Đây là bước đi chiến lược, đầy tiềm năng, để Việt Nam xây dựng nền tảng nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của thời đại mới.
Tuy nhiên, cốt lõi nằm ở cơ chế phân bổ, giải ngân, giám sát, và đảm bảo quyền tiếp cận công bằng. Nếu thiếu minh bạch, hoặc đầu tư không đúng mục tiêu dễ dẫn đến lãng phí, bất bình đẳng, hoặc hiệu quả thấp. Vì vậy, cần có cam kết mạnh mẽ về trách nhiệm từ cấp trung ương, địa phương, cộng đồng để đảm bảo ngân sách đến đúng nơi cần, mang lại lợi ích thực chất cho người học. Những học sinh ở khu công nghiệp, các vùng với hoàn cảnh sống khó khăn, ít có điều kiện học tập, phát triển kỹ năng cần những chính sách hỗ trợ cụ thể: trường bán trú gần khu công nghiệp, học bổng, hỗ trợ học phí, thiết bị học tập, không gian học tập cộng đồng để thật sự không bị bỏ lại phía sau.
Đầu tư cho giáo dục phải đặt người học làm trung tâm. Mục tiêu không chỉ xây dựng trường lớp, đầu tư thiết bị, đạt chuẩn số liệu mà cần tạo môi trường học tập thực sự tốt, giúp học sinh phát triển toàn diện: tri thức, kỹ năng, nhân cách và sẵn sàng hội nhập, sáng tạo, đóng góp cho tương lai đất nước.
Hà Giang
Tài liệu tham khảo:
Bộ GDĐT (2025). Quốc hội thảo luận về Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hoá, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035. https://moet.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop2/quoc-hoi-thao-luan-ve-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-hien-dai-hoa-nang-cao-chat-luong-giao-duc-va-dao-tao-giai-doan-2026.html?categoryId=101914884