
Sở GD&ĐT tỉnh An Giang tập huấn hướng dẫn dạy và học tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp 1. Ảnh: T. Nhân.
Chuẩn bị tâm thế từ lớp 1
Trong những năm gần đây trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại Đồng bằng sông Cửu Long được chuẩn bị tiếng Việt và một số kỹ năng để các em sẵn sàng đi học đúng độ tuổi, được chăm sóc, được tạo điều kiện để học tập. Năm học 2023 - 2024, hệ thống các trường Phổ thông dân tộc nội trú (chủ yếu dạy con em đồng bào Khmer) tiếp tục được đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất trường, lớp học và hệ thống trang thiết bị giáo dục nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu dạy và học. Toàn tỉnh Sóc Trăng hiện có 10 trường Phổ thông dân tộc nội trú với 102 lớp, 3.409 học sinh; có 134 trường phổ thông tổ chức dạy chữ Khmer, với 1.625 lớp, cho 44.509 học sinh. Bên cạnh đó, tỉnh có 4 trường phổ thông ngoài công lập dạy song ngữ Việt - Hoa với 51 lớp, cho 1.625 học sinh.
Để tổ chức triển khai thực hiện tốt công tác dạy và học chữ cho học sinh dân tộc thiểu số, ngành GDĐT Sóc Trăng phối hợp với Ban Dân tộc trình Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng chính sách đặc thù hỗ trợ người dạy tiếng và chữ Khmer vào dịp hè; tiếng và chữ Hoa tại các trường ngoài công lập trên địa bàn tỉnh. Đây là sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền đến người dạy tiếng dân tộc thiểu số tại các điểm chùa và cơ sở giáo dục ngoài công lập; góp phần bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết của đồng bào dân tộc Khmer và Hoa trên địa bàn tỉnh. Trong thời gian tới, ngành Giáo dục Sóc Trăng sẽ tham mưu với tỉnh tiếp tục có chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp đối với người dạy chữ và tiếng của đồng bào dân tộc.
Tại An Giang, để đảm bảo công tác giảng dạy tiếng Việt cho học sinh DTTS, Sở GDĐT tỉnh An Giang cũng đã tăng cường tập huấn hướng dẫn dạy và học tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp 1.

Giáo viên huyện Tịnh Biên (An Giang) dạy mẫu tiết tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số. Ảnh: T. Nhân.
Tham gia tập huấn, cán bộ, giáo viên được các báo cáo viên giới thiệu tổng quan về Bộ tài liệu “Dạy học tiếng Việt cho trẻ em là người đồng bào dân tộc thiểu số trước khi vào lớp 1” phù hợp với khung nội dung dạy và học tiếng Việt cho trẻ em là người DTTS (biên soạn theo khung nội dung đã Quy định tại Thông tư số 23/2024/TT- BGDĐT ngày 8/12/2024 của Bộ GDĐT). Theo đó, giáo viên thực hành soạn và trình bày kế hoạch bài dạy các dạng bài khi tham gia tập huấn. Đồng thời, trao đổi thảo luận chung về nội dung và phương pháp dạy tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số trước khi vào lớp 1 tại mỗi địa phương. Qua tập huấn, bồi dưỡng năng lực cho cán bộ quản lý và giáo viên về việc tổ chức dạy và học tiếng Việt nhằm giải quyết những khó khăn về rào cản ngôn ngữ cho trẻ em là người DTTS trước khi vào lớp 1 theo định hướng tiếp cận năng lực và phẩm chất. Tập huấn giúp cán bộ quản lý và giáo viên tham gia tập huấn nắm vững nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy và học tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp 1 và triển khai hiệu quả tại địa phương. Đồng thời, giúp giáo viên có phương pháp giúp trẻ em là người đồng bào DTTS chuẩn bị tâm thế sẵn sàng, hứng thú, chủ động trong học tập; hình thành một số kĩ năng học tập cơ bản và năng lực sử dụng tiếng Việt, kỹ năng giao tiếp, ứng xử xã hội trước khi vào lớp 1…
Khắc phục những khó khăn đặc thù
Theo chia sẻ của thầy cô giáo, trong công tác giảng dạy tiếng phổ thông cho học sinh DTTS, vẫn còn những khó khăn đặc thù. Trước hết, khó khăn về phía học sinh do đa số học sinh dân tộc sống ở vùng xa xôi hẻo lánh, đi lại khó khăn. Học sinh dân tộc gặp nhiều hạn chế về môi trường sử dụng tiếng Việt vì những người xung quanh các em giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ là chủ yếu. Ở cộng đồng, các em dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp, đến trường các em phải học bằn ngôn ngữ thứ hai là tiếng Việt. Lời nói của trẻ trước khi đến trường tiểu học có tính chất tình huống, là dạng ngôn ngữ hội thoại được tạo ra trong hoạt động vui chơi và các hoạt động khác. Khi đến trường, các em bắt đầu làm quen với lời nói độc thoại…
Như vậy, có thể nói học sinh dân tộc không chỉ gặp khó khăn khi dùng tiếng Việt để trao đổi, chia sẻ thông tin với bạn bè và thầy cô, mà còn rất khó khăn khi nghe hiểu lời thầy cô hay bạn khi đọc hiểu các bài học trong sách. Đối với các em, luyện viết là điều hết sức khó, không chỉ vì vốn sống, vốn tiếng Việt của các em quá ít mà còn vì tiếng mẹ đẻ của các em không có chữ viết, và đối với các em, viết là hành động khó từ thao tác tới nội dung biểu đạt… Về phía giáo viên, nhiều giáo viên không biết tiếng dân tộc để hỗ trợ học sinh học tập và giao tiếp. Sự bất đồng về ngôn ngữ giữa giáo viên và dân cư nơi trường đóng đã hạn chế kết quả vận động gia đình và cộng đồng tham gia vào quá trình giáo dục như huy động trẻ em đi học và đi học đều chưa hiệu quả; do đó hạn chế kết quả học tập của học sinh.

Học sinh Trường Phổ thông Dân tộc nội trú THCS Tri Tôn (An Giang). Ảnh: T. Nhân.
Về giải pháp tháo gỡ khó khăn, các địa phương tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số; dạy và học phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc nhằm tăng cường Tiếng Việt một cách hiệu quả qua các hoạt động dạy và học hàng ngày góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, giảm thiểu tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học. Để việc dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc một cách hiệu quả, không chỉ cần phối hợp sử dụng các phương pháp một cách linh hoạt và hợp lí, mà còn cần chú ý vận dụng các phương pháp cho phù hợp với mục tiêu và nội dung đặc trưng của từng phân môn. Sự lựa chọn phương pháp dạy học cần được xuất phát từ mục tiêu nội dung của bài học. khi chuẩn bị bài, giáo viên cân đối tiếng Việt và vốn từ của học sinh với nội dung bài học trong sách giáo khoa để quyết định giữ nguyên bài học như sách giáo khoa hay điều chỉnh (sau đó dự kiến phương án điều chỉnh thực hiện điều chỉnh nội dung bài học).
Giáo viên xác định phương pháp dạy học ngay từ khi chuẩn bị bài, cần lưu ý phối hợp các phương pháp dạy học tiếng Việt thường được sử dụng với các phương pháp dạy học tiếng phổ thông cho học sinh dân tộc… Đặc biệt là tạo không khí tiết học sôi nổi, nhẹ nhàng, hấp dẫn. Bồi dưỡng những học sinh thành thạo tiếng Việt để làm “trợ giảng” cho giáo viên. Nhà trường đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp và xem đây là điều kiện thuận lợi để các em có được những khoảng thời gian hoạt động vui chơi tập thể giúp các em mạnh dạn, tự tin và có cơ hội để bồi dưỡng tiếng Việt một cách hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giáo dục vì học sinh…
Từ những kết quả đạt được có thể khẳng định, công tác nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, tăng cường tiếng Việt và bảo tồn tiếng dân tộc thiểu số đang được triển khai ngày càng bài bản và hiệu quả tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là tiền đề quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục bền vững, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, đồng thời góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong thời gian tới, cùng với sự đầu tư đồng bộ về chính sách, cơ sở vật chất và nhân lực, các địa phương kỳ vọng tạo nên chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong chất lượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bình Phú – Trịnh Thu