Đội ngũ giáo viên người DTTS tăng cả về số lượng và nâng cao về chất lượng (Ảnh minh hoạ, nguồn: QuangNgai)
Tỉnh Quảng Ngãi mới được hình thành trên cơ sở hợp nhất 2 tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum, gồm có 96 đơn vị hành chính: 86 xã, 09 phường và 01 đặc khu rộng thứ 5 cả nước. Dân số là 2.161.755 người, với 43 dân tộc anh em. Sau khi sáp nhập tỉnh Kon Tum vào tỉnh Quảng Ngãi, quy mô quản lý giáo dục của tỉnh đã mở rộng đáng kể, bao gồm cả khu vực miền núi phía tây giáp hai nước Lào và Campuchia. Điều này đặt ra yêu cầu mới cho ngành Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tỉnh Quảng Ngãi về công tác quản lý, phân bổ nguồn lực, bảo đảm quyền được học tập của mọi học sinh, đồng thời triển khai hiệu quả các chính sách đặc thù đã được ban hành đối với vùng DTTS&MN và các xã biên giới.
Hiện nay, tỉnh Quảng Ngãi có 923 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, trung tâm GDTX, trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập, cụ thể: mầm non có 339 trường; tiểu học có 225 trường; THCS có 235 trường; TH và THCS có 254 trường; THPT có 64 trường; 01 Trường Mầm non - Tiểu học Việt Úc, 01 Trường Liên cấp thành phố giáo dục quốc tế IEC-Quảng Ngãi; 02 Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập; 02 Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh với tổng số hơn 444.645 học sinh, học viên.
Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp của tỉnh Quảng Ngãi hiện có 36 đơn vị, trong đó, có 21 cơ sở công lập và 15 cơ sở ngoài công lập, gồm 06 trường cao đẳng; 05 trường trung cấp; 02 trung tâm GDNN; 12 trung tâm GDNN - GDTX; 11 cơ sở đào tạo khác có tham gia đào tạo nghề (Có 3 trường cao đẳng thuộc tỉnh quản lý là: Trường Cao đẳng Việt Nam - Hàn Quốc - Quảng Ngãi, Trường Cao đẳng Kon Tum, Trường Cao đẳng Y tế Đặng Thùy Trâm) với tổng số hơn 25.022 học sinh, sinh viên. Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên toàn tỉnh Quảng Ngãi tính đến ngày 01/7/2025 hiện có: 31.859 người.
Điều kiện thuận lợi và thách thức phát triển giáo dục DTTS&MN tại Quảng Ngãi
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên đầu tư, hỗ trợ phát triển giáo dục ở những vùng dân tộc thiểu số, miền núi nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Công tác GDĐT vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi ở Quảng Ngãi đạt được nhiều thuận lợi nhờ sự chỉ đạo kịp thời của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh và Sở GDĐT tỉnh.
Về nhận thức và hành động trong dạy và học đã có nhiều chuyển biến tích cực; quy mô, mạng lưới trường lớp ngày càng phát triển, công tác tuyển sinh đảm bảo đúng độ tuổi, chất lượng giáo dục toàn diện và mũi nhọn được củng cố, từng bước nâng cao, thu hẹp khoảng cách với các vùng khác.
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư ngày càng đồng bộ, đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học, nuôi dưỡng học sinh nội trú, bán trú. Công tác xã hội hóa giáo dục có nhiều chuyển biến, thu hút được sự quan tâm, hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân; chính quyền địa phương chú trọng xây dựng, củng cố trường đạt chuẩn quốc gia, bảo đảm điều kiện giáo dục đặc thù.
Song với đầu tư cơ sở vật chất, các chính sách đào tạo bồi dưỡng, hỗ trợ, đội ngũ giáo viên người DTTSMN cũng là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục ở miền núi. Những năm qua, đội ngũ này tăng cả số lượng và nâng cao về chất lượng.
Ngành Giáo dục Quảng Ngãi thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, đổi mới sinh hoạt chuyên môn cho giáo viên. Qua đó, giúp họ đáp ứng tốt hơn yêu cầu về quản lý giáo dục và dạy học, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Theo thầy Nguyễn Hữu Liệu xã Sơn Hạ: Đội ngũ giáo viên người DTTS tăng cả về số lượng và nâng cao về chất lượng. Điểm thuận lợi của họ là ngôn ngữ bản địa nên dễ hòa nhập với học sinh hơn giáo viên người Kinh. Hiện toàn xã Sơn Hạ có 190/944 giáo viên là người DTTS (chiếm tỷ lệ hơn 20%), trong đó có 66 giáo viên bậc Mầm non, 80 giáo viên bậc Tiểu học và 44 giáo viên bậc THCS. Điều đáng mừng là trong kỳ thi tuyển giáo viên năm 2019, toàn huyện có 29/94 thí sinh người DTTS trúng tuyển (chiếm tỷ lệ gần 31%). Đặc biệt ở bậc học MN từ 10 giáo viên tăng lên 40 giáo viên.
Thầy Bùi Thế Giới, xã Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi cho biết: Hiện xã có 74/454 giáo viên là người DTTS (chiến tỷ lệ 17,4%). Trong kỳ thi tuyển vừa qua, có 23/86 thí sinh là người DTTS trúng tuyển (chiếm tỷ lệ gần 27%), đa số giáo viên người DTTS phát huy được ưu thế ngôn ngữ, nhiệt tình, chịu khó trong công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn một số giáo viên chậm nắm bắt việc đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, ảnh hưởng đến hiệu quả dạy học.
Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên tỉnh Quảng Ngãi hiện đã được củng cố, kiện toàn, đảm bảo số lượng, cơ cấu, chuẩn hóa trình độ để đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý và phương pháp giảng dạy tại các trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) và trường phổ thông có học sinh bán trú. Nhờ đó, giáo dục vùng DTTS, miền núi không chỉ nâng cao chất lượng dạy học mà còn góp phần đào tạo nguồn cán bộ cho địa phương, đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bên cạnh những thuận lợi, ngành Giáo dục Quảng Ngãi vẫn còn gặp nhiều khó khăn thách thức. Thứ nhất, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học ở một số cơ sở giáo dục còn thiếu, chưa đồng bộ so với yêu cầu triển khai CTGDPT 2018, nhất là thiết bị dạy học ngoại ngữ, tin học, thiết bị thí nghiệm, thực hành; hệ thống nhà bán trú, nhà ăn, nhà bếp, công trình nước sạch,... của nhiều trường phổ thông dân tộc bán trú, phổ thông có học sinh bán trú còn thiếu so với nhu cầu thực tế hoặc đã xuống cấp.
Thứ hai, đa phần các phòng học, bếp ăn tập thể, khu nội trú được xây dựng trước đây nên đã xuống cấp cần phải bố trí nguồn kinh phí tu sửa, sửa chữa để đảm bảo phụ vụ công tác dạy học và nuôi dưỡng; diện tích các phòng học nhỏ không còn phù hợp trong dạy học theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Nhiều trường còn thiếu nhà đa năng; khu sân chơi, bãi tập chưa được trang bị đủ thiết bị; nhà vệ sinh, công trình nước sạch cũng chưa đảm bảo. Một số trường nhà công vụ cho giáo viên bị hư hỏng, xuống cấp cần được sửa chữa.
Thứ ba, tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn còn diễn ra ở nhiều địa phương, đặc biệt là ở các môn học mới trong Chương trình GDPT 2018; việc điều chuyển giáo viên giữa các đơn vị trường học gặp nhiều khó khăn do khoảng cách địa lí xa, đặc biệt ở khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa.
Thứ tư, chế độ cho nhân viên nấu ăn ở trường mầm non, bán trú chưa có quy định thống nhất; mức hỗ trợ theo Nghị định 105/2020/NĐ-CP còn thấp, chưa bảo đảm đời sống.
Thứ năm, các trường học chủ yếu trên địa bàn các xã miền núi nên còn gặp rất nhiều khó khăn, đường xá đi lại bị chia cách nhiều sông suối, xa trung tâm; đa số dân ở trong xã vùng dân tộc thuộc diện hộ nghèo, đời sống kinh tế khó khăn, dân trí thấp nên ít quan tâm đến việc học tập của con em, do đó, hiện tượng học sinh bỏ học vẫn còn tồn tại ở một số trường.
Thứ sáu, một số văn bản chưa được điều chỉnh, bổ sung kịp thời để phù hợp với thực tiễn tổ chức bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp sau hợp nhất, gây lúng túng trong triển khai nhiệm vụ.
Thứ bảy, địa bàn sau hợp nhất rộng, phân tán, địa hình phức tạp, giao thông chưa đồng bộ; khoảng cách giữa các địa phương xa, gây ảnh hưởng đến công tác quản lý, chỉ đạo điều hành trong thời gian đầu khi bộ máy tổ chức chưa hoàn thiện và ổn định.
9 giải pháp quan trọng phát triển bền vững giáp dục và đào tạo DTTS&MN
Trước những điều kiện thuận lợi và khó khăn thách thức, trong giai đoạn tiếp theo (2025–2030), để phát triển giáo dục và đào tạo vùng đồng bào DTTS&MN tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành. Tỉnh Quảng Ngãi đề ra các mục tiêu giải pháp phát triển bền vững, mở rộng tiếp cận công bằng, nâng cao chất lượng GDĐT, rút ngắn khoảng cách về giáo dục với các vùng khác, đặc biệt chú trọng công tác giáo dục các dân tộc có điều kiện khó khăn đặc thù. Cụ thể:
Thứ nhất, Triển khai hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước và kế hoạch của tỉnh về đổi mới giáo dục vùng DTTS.
Thứ hai, Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước; bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý; đẩy mạnh ứng dụng CNTT, chuyển đổi số trong quản lý và dạy học.
Thứ ba, Ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất: trường lớp, nhà công vụ, nhà bán trú, bếp ăn, công trình nước sạch; nâng cấp trường PTDTNT, phát triển hệ thống PTDTBT, hỗ trợ học sinh THPT bán trú.
Thứ tư, Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ đối với học sinh, giáo viên và nhân viên phục vụ trong trường bán trú; tăng cường huy động trẻ em DTTS đến trường, xóa mù chữ cho người lớn, đặc biệt là phụ nữ.
Thứ năm, Nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Việt cho học sinh DTTS; chuẩn bị tiếng Việt trước khi vào lớp 1; triển khai hiệu quả Chương trình GDPT 2018 gắn với biên soạn, thẩm định tài liệu giáo dục địa phương.
Thứ sáu, Đẩy mạnh phân luồng, hướng nghiệp, gắn dạy văn hóa với dạy nghề; tăng cường phối hợp giữa phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Thứ bày, Củng cố, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, THCS; xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội học tập suốt đời.
Thứ tám, Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động thi, kiểm định chất lượng; xử lý nghiêm vi phạm để bảo đảm công bằng, minh bạch.
Thứ chín, Đẩy mạnh công tác truyền thông, lan tỏa điển hình tiên tiến, gương người tốt việc tốt, nâng cao sự đồng thuận xã hội đối với công tác giáo dục vùng DTTS.
Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, phát triển giáo dục vùng DTTS&MN ở Quảng Ngãi vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn. Với quyết tâm thực hiện các chủ trương, chính sách ưu việt của Đảng, Nhà nước, các cấp bộ ban ngành cùng sự đồng hành của toàn xã hội và các giải pháp mang tính đột phá, ngành Giáo dục Quảng Ngãi kỳ vọng sẽ tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của tỉnh, đặc biệt là vùng DTTS&MN.
Trịnh Thu
Tài liệu tham khảo
Báo cáo chuyên đề về công tác GDĐT vùng DTTS&MN của tỉnh Quảng Ngãi tại Hội thảo quốc gia.