Công tác kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) và xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia (CQG) đã trở thành giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục. (Ảnh minh họa, nguồn Inter)
Thành tựu nổi bật giai đoạn 2019-2025
Giai đoạn 2019-2025, công tác KĐCLGD và CQG được tích cực triển khai ở các cấp trong bối cảnh ngành giáo dục tiếp tục nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước. Nghị quyết 29-NQ/TW đã xác định KĐCLGD là một trong các nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục; Chính phủ cũng đã đặt ra các tiêu chí về KĐCLGD, CQG trong Quyết định số 318/QĐ-TTg và Quyết định số 320/QĐ-TTg. Luật Giáo dục 2019 có quy định về KĐCLGD (tại các Điều 110, 111, 112); cách tiếp cận của ngành giáo dục cũng đã có sự điều chỉnh khi thực hiện tích hợp quy định về KĐCLGD và CQG. Cùng với đó, ngành Giáo dục cũng đã triển khai thực hiện Chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 với mục tiêu đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và công bằng. Trong đó, đẩy mạnh đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu phát triển trong bối cảnh hội nhập. Nhờ đó, công tác KĐCLGD và công nhận CQG đã đạt được nhiều kết quả quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục các nhà trường.
Về công tác tham mưu, trong giai đoạn từ 2019 đến 2025, Bộ GDĐT đã tham mưu với Đảng, Quốc hội, Chính phủ ban hành nhiều các văn bản quan trọng liên quan đến KĐCLGD như Luật Giáo dục 2019; Kết luận số 91-KL/TW, các Nghị định của Chính phủ,… Đồng thời, Bộ GDĐT đã ban hành đầy đủ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo và hướng dẫn về KĐCLGD để các địa phương thực hiện; Thống nhất một bộ tiêu chuẩn đánh giá, một quy trình đánh giá đã tạo nhiều thuận lợi cho các CSGD thực hiện cùng một lúc hai hoạt động, góp phần vào giảm các thủ tục hành chính trong công tác quản lý;
Hằng năm, Bộ GDĐT đã có văn bản hướng dẫn nhiệm vụ năm học; các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ về công tác KĐCLGD MN, PT và GDTX. Tổ chức nhiều khóa tập huấn về TĐG và ĐGN bổ sung đội ngũ cán bộ quản lý (CBQL), giáo viên (GV) của các Sở GDĐT tham gia công tác KĐCLGD MN, PT và GDTX và đã thực hiện công tác kiểm tra việc thực hiện KĐCLGD tại các Sở GDĐT và các CSGD.
Trước hết, có thể khẳng định, KĐCLGD và công nhận CQG đã tạo diện mạo mới cho nhiều trường học trên cả nước. Tính đến tháng 5/2025, 69,7% cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, GDTX đã được đánh giá ngoài (ĐGN); trong đó có gần 64% đạt từ cấp độ 2 trở lên, chỉ 0,2% không đạt. Đồng thời, 65% trường học đạt chuẩn quốc gia, gồm 48,9% đạt mức độ 1 và 16,1% đạt mức độ 2. Đây là bước tiến quan trọng, khẳng định sự nỗ lực của toàn ngành và địa phương trong việc chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục.
Công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ GDĐT và sự tham gia của các địa phương đã phát huy hiệu quả. Hệ thống văn bản pháp luật, hướng dẫn được ban hành đồng bộ; nhiều địa phương đã chủ động thành lập Ban chỉ đạo, ban hành kế hoạch triển khai, tăng cường tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ. Đến nay, đã có hơn 31.000 cán bộ quản lý, giáo viên được tập huấn về đánh giá ngoài, trong đó gần 16.000 người trực tiếp tham gia các đoàn đánh giá.
Một điểm sáng khác là ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, hỗ trợ KĐCLGD, điển hình tại TP. Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế, Đồng Nai, Kiên Giang... đã sử dụng phần mềm chuyên dụng giúp giảm thủ tục hành chính, nâng cao tính minh bạch và hiệu quả giám sát.
Đặc biệt, nhờ hoạt động TĐG và ĐGN, nhiều trường học đã nhìn nhận rõ điểm mạnh, điểm yếu, từ đó xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng sát thực tế. Đây chính là động lực quan trọng thúc đẩy việc đổi mới quản trị nhà trường, nâng cao năng lực dạy – học, tạo môi trường giáo dục an toàn, thân thiện và bình đẳng cho học sinh.
Những thách thức đặt ra
Bên cạnh kết quả tích cực, công tác KĐCLGD và công nhận CQG vẫn đối mặt không ít khó khăn. Khó khăn thứ nhất, nhận thức chưa đồng đều: một số cán bộ quản lý, giáo viên còn coi kiểm định như thủ tục hành chính, chưa thật sự chú trọng cải tiến chất lượng sau đánh giá; Thứ hai, đội ngũ đánh giá ngoài chưa ổn định, phần lớn kiêm nhiệm, thiếu thời gian nghiên cứu sâu hồ sơ, dẫn đến hiệu quả đánh giá và giám sát sau công nhận còn hạn chế; Thứ ba, cơ sở vật chất còn bất cập: nhiều trường thiếu phòng học, phòng chức năng, trang thiết bị dạy học, nhất là ở vùng khó khăn, vùng đô thị đông dân. Một số trường được xây dựng từ lâu, thiết kế không còn phù hợp với tiêu chuẩn mới, gây khó khăn trong việc đạt chuẩn CQG; Thứ tư, nguồn lực hạn chế: kinh phí chi thường xuyên cho hoạt động kiểm định còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu; công tác xã hội hoá giáo dục chưa huy động được nhiều nguồn lực từ cộng đồng, doanh nghiệp.
Ngoài ra, công tác kiểm tra, giám sát trước – trong – sau kiểm định ở một số nơi chưa thường xuyên; đặc biệt, việc đánh giá các trung tâm giáo dục nghề nghiệp – GDTX còn thiếu bộ công cụ riêng, dẫn đến nhiều vướng mắc trong thực hiện.
Phương hướng giai đoạn 2026-2030
Trước yêu cầu mới của Nghị quyết 71-NQ/TW (2025) về đột phá phát triển giáo dục, mục tiêu đặt ra đến năm 2030 có 80% trường phổ thông đạt CQG. Để hiện thực hóa, ngành giáo dục tập trung các nhiệm vụ: Thứ nhất, Hoàn thiện cơ chế, chính sách: sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục 2019 và các văn bản liên quan, thay thế quy định kiểm định định kỳ bằng yêu cầu bảo đảm chất lượng thường xuyên, liên tục. Thứ hai, Nâng cao năng lực đội ngũ: tổ chức tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý, giáo viên; có cơ chế đãi ngộ, ổn định lực lượng đánh giá ngoài chất lượng cao. Thứ ba, Bảo đảm nguồn lực: phân bổ kinh phí hợp lý, ưu tiên cho vùng khó khăn; đẩy mạnh xã hội hoá, huy động cộng đồng và doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị. Thứ tư, Ứng dụng công nghệ số: xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về KĐCLGD và CQG, liên thông toàn ngành; sử dụng phần mềm hỗ trợ tự đánh giá, đánh giá ngoài nhằm minh bạch, hiệu quả. Thứ năm, Tăng cường giám sát và trách nhiệm giải trình: ban hành cơ chế báo cáo định kỳ cải tiến sau đánh giá; gắn trách nhiệm người đứng đầu cơ sở giáo dục với kết quả kiểm định. Thứ sáu, Đẩy mạnh truyền thông và nhân rộng mô hình tốt: tạo sự đồng thuận xã hội, phát huy vai trò của phụ huynh, chính quyền và cộng đồng trong xây dựng trường chuẩn.
Có thể khẳng định, giai đoạn 2019-2025, công tác kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận trường đạt chuẩn quốc gia đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, công bằng và hiệu quả giáo dục. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu 2030, cần tiếp tục khắc phục hạn chế về nhận thức, nguồn lực, cơ sở vật chất và năng lực thực thi. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự đồng thuận xã hội và quyết tâm đổi mới của toàn ngành, công tác KĐCLGD và CQG chắc chắn sẽ phát triển bền vững, trở thành động lực quan trọng đưa giáo dục Việt Nam tiến kịp xu thế hiện đại, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Trịnh Thu