Sứ mệnh mới – Bối cảnh mới của Giáo dục Việt Nam: “Muốn đột phá, trước hết nhân lực phải đủ năng lực tạo ra đột phá”

Năm 2025 đánh dấu chặng đường 80 năm hình thành và phát triển của Giáo dục và Đào tạo - hành trình gắn liền với sự trưởng thành và vươn mình của dân tộc. Từ phong trào “diệt giặc dốt” những ngày đầu lập quốc, đến nay, dưới sự quan tâm chăm lo của Đảng và Nhà nước, sự ủng hộ của toàn xã hội, ngành Giáo dục đã không ngừng phát triển, khẳng định vị thế trong khu vực và trên thế giới. Sau 80 năm, đứng trước bối cảnh mới, kỷ nguyên số và hội nhập, Ngành Giáo dục cần làm gì để thực hiện sứ mệnh?

Tạp chí Giáo dục có cuộc trò chuyện với GS.TS Phạm Tất Dong – Chuyên gia giáo dục, nhà nghiên cứu nhiều năm gắn bó với sự nghiệp Giáo dục, để cùng nhìn lại thành tựu của ngành Giáo dục và chia sẻ quan điểm về sứ mệnh mới trong bối cảnh mới hội nhập quốc tế và chuyển đổi số.

GS.TS Phạm Tất Dong – Chuyên gia giáo dục, nhà nghiên cứu nhiều năm gắn bó với sự nghiệp Giáo dục (Ảnh: HoiKhuyenhoc)

80 năm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài

PV: Nhìn lại chặng đường 80 năm hình thành và phát triển, theo Giáo sư đâu là thành tựu lớn nhất mà nền giáo dục Việt Nam đã đạt được đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?

GS.TS Phạm Tất Dong: Nếu nói một cách khái quát, thành tựu lớn nhất chính là việc nền giáo dục nước ta đã góp phần quyết định vào công cuộc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài – ba trụ cột xuyên suốt mọi giai đoạn phát triển của đất nước.

Chúng ta còn nhớ, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hơn 95% dân số mù chữ. Lời kêu gọi “diệt giặc dốt” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra phong trào Bình dân học vụ rộng khắp, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên người dân Việt Nam làm chủ con chữ, làm chủ tri thức.

Trong kháng chiến, hàng triệu học sinh, sinh viên rời ghế nhà trường để cầm súng bảo vệ Tổ quốc, đồng thời đội ngũ trí thức trẻ được đào tạo đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của dân tộc. Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập, giáo dục tiếp tục khẳng định vai trò then chốt trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đến nay, tỷ lệ biết chữ đạt trên 97%, mạng lưới trường lớp phủ khắp cả nước, chất lượng học sinh, sinh viên không ngừng nâng cao, nhiều em đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế.

Có thể nói, 80 năm qua, giáo dục đã thực hiện đúng sứ mệnh lịch sử của mình: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đó chính là sức mạnh nội sinh, là nền tảng để đất nước vững bước trên con đường hội nhập và phát triển.

Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước tạo động lực phát triển giáo dục

PV: Trong 80 năm qua, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho giáo dục. Giáo sư nhìn nhận thế nào về sự ưu tiên này?

GS.TS Phạm Tất Dong: Đúng vậy, xuyên suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là tương lai của dân tộc. Quan điểm đó được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng: từ Nghị quyết 29-NQ/TW(2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết 57-NQ/TW (2024) về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đến gần đây là Nghị quyết 71-NQ/TW (2025) về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo… Việc đặt giáo dục đi trước một bước so với các lĩnh vực khác thể hiện tầm nhìn chiến lược: đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển bền vững. Chúng ta thấy rõ, nhờ giáo dục, Việt Nam có được đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, quản lý… góp phần đưa đất nước từ nghèo nàn, lạc hậu vươn lên vị thế mới.

Sứ mệnh mới: Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

PV: Trước bối cảnh mới, đặc biệt là tinh thần của Nghị quyết 71-NQ/TW, theo Giáo sư, Giáo dục cần tập trung vào nhiệm vụ gì để tạo đột phá?

GS.TS Phạm Tất Dong: Theo tôi, sứ mệnh 80 năm tới của giáo dục là phải đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao , một trong những yếu tố quyết định để đất nước thực hiện khâu đột phá về khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Muốn có đột phá, trước hết nhân lực phải đủ năng lực tạo ra đột phá. Tôi cho rằng cần chú trọng hai nhóm nhân lực chủ chốt:

Nhân lực tại chỗ: Đây là đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động đang trực tiếp làm việc. Họ cần được đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng khoa học, công nghệ, ngoại ngữ để có thể “đào tạo đến đâu, ứng dụng được ngay đến đó”.

Nhân lực tương lai: Là thế hệ sinh viên hiện nay còn gọi là thế hệ Gen Z, Gen Alpha. Đào tạo nguồn nhân lực này phải tính đến chu kỳ 5–10 năm sau mới phát huy tác dụng. Ví dụ, sinh viên tốt nghiệp năm 2025 thì đến 2030 mới bắt đầu tham gia thị trường lao động ở mức cao.

Nếu chỉ chú trọng đào tạo nhân lực cho tương lai mà bỏ quên lực lượng tại chỗ thì sẽ thiếu hụt ngay trong giai đoạn hiện nay. Ngược lại, nếu không chuẩn bị nhân lực tương lai thì đất nước sẽ không có lực lượng kế cận để duy trì và phát triển. Cả hai nhóm đều quan trọng và cần được đặt song song.

Xóa “mù số” - Chìa khóa nâng cao chất lượng nhân lực

PV: Theo Giáo sư, thách thức lớn nhất hiện nay đối với giáo dục Việt Nam là gì?

GS.TS Phạm Tất Dong: Thách thức lớn nhất chính là chuyển đổi số. Nếu không phổ cập công nghệ số, thì làm gì có nhân lực chất lượng cao. Mà không có nhân lực chất lượng cao thì không thể nói đến đột phá phát triển.

Nguồn nhân lực tại chỗ của chúng ta hiện nay còn nhiều hạn chế: nhiều người thiếu kiến thức công nghệ, yếu ngoại ngữ, chưa đọc thông viết thạo các ngôn ngữ phổ biến như tiếng Anh, tiếng Pháp. Trong khi đó, thế hệ trẻ lại năng động hơn, cập nhật công nghệ, ngoại ngữ nhanh hơn.

Chính vì vậy, phong trào “Bình dân học vụ số” mà Đảng, Nhà nước phát động là rất kịp thời. Đây là sự kế thừa và phát triển tinh thần phong trào “Bình dân học vụ” năm 1945, nhưng trong bối cảnh mới – nhằm xóa “mù số”, phổ cập kỹ năng công nghệ số cho toàn dân. Tháng 3/2025, Chính phủ đã ra mắt nền tảng binhdanhocvuso.gov.vn, cung cấp các chương trình học tập trực tuyến từ trong nhà trường đến toàn xã hội. Đây là một công cụ quan trọng giúp người dân tiếp cận tri thức số, trở thành công dân số trong kỷ nguyên số.

Tôi đặc biệt tâm đắc với chỉ đạo của Thủ tướng: “Phong trào này phải trở thành một cuộc cách mạng toàn dân, toàn diện, không ai bị bỏ lại phía sau. Nếu làm tốt, chúng ta sẽ có lực lượng nhân lực đủ khả năng tham gia vào chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số”.

Từ thành tựu 80 năm đến khát vọng phát triển trong kỷ nguyên mới

PV: Từ những phân tích trên, Giáo sư muốn gửi gắm điều gì cho chặng đường phát triển tiếp theo của giáo dục Việt Nam?

GS.TS Phạm Tất Dong: Nhìn lại 80 năm, chúng ta có quyền tự hào với những thành tựu đã đạt được: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhưng phía trước còn nhiều việc phải làm. Điều quan trọng nhất là giáo dục phải trở thành động lực để đất nước thực hiện ba đột phá chiến lược: thể chế, hạ tầng, nhân lực. Trong đó, nhân lực chất lượng cao chính là nhân tố trung tâm.

Chúng ta cần một nền giáo dục không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà còn hình thành năng lực sáng tạo, thích ứng, hội nhập toàn cầu. Cần chú trọng đào tạo kỹ năng số, ngoại ngữ, năng lực đổi mới sáng tạo. Đó là cách để thế hệ trẻ Việt Nam có thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường lao động quốc tế.

Sứ mệnh mới của giáo dục Việt Nam trong kỷ nguyên số không chỉ là “trồng người” theo nghĩa truyền thống, mà là đào tạo những con người có trí tuệ, có bản lĩnh, có khả năng tạo ra giá trị mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa.

80 năm qua, giáo dục Việt Nam đã chứng minh vai trò tiên phong trong sự nghiệp cách mạng tri thức, góp phần vào sự thắng lợi của công cuộc dựng nước và giữ nước. Bước sang giai đoạn mới, sứ mệnh đặt ra càng nặng nề nhưng cũng đầy vinh quang: chuẩn bị và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, những công dân toàn cầu mang trí tuệ Việt Nam, đủ sức gánh vác khát vọng phát triển đất nước hùng cường trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

 

Trịnh Thu

 

Hội thảo quốc tế

Hội thảo quốc gia

 

Phòng, chống COVID-19