Đổi mới sáng tạo theo hệ sinh thái giáo dục số: Từ tư duy chính sách đến chiến lược hành động

Trong bối cảnh chuyển đổi số, yêu cầu nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo đang trở thành nhiệm vụ cấp thiết đối với mọi lĩnh vực, đặc biệt là giáo dục. Từ một hệ thống vận hành theo mô hình truyền thống, giáo dục đang trải qua quá trình tái cấu trúc dưới tác động của công nghệ mới và môi trường số hóa. Một tiếp cận tích hợp đang nhận được nhiều quan tâm là xây dựng hệ sinh thái giáo dục số – không gian tương tác giữa con người, công nghệ, chính sách và thích ứng trong giáo dục hiện đại.

Trả lời phỏng vấn của Tạp chí Giáo dục, GS.TS Trần Trung phân tích rõ những nền tảng chính trị, kinh tế và công nghệ đang mở ra cho Việt Nam cơ hội đột phá về giáo dục số, đồng thời lý giải cách tiếp cận hệ sinh thái như một chìa khóa để phát triển bền vững, nhân văn và toàn diện hơn cho giáo dục trong kỉ nguyên số.

PV: Thưa Giáo sư, trong bối cảnh hiện nay, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang được xác định là đột phá chiến lược trong phát triển đất nước. Giáo sư nhìn nhận vai trò của giáo dục trong quá trình này như thế nào?

GS.TS Trần Trung: Sau hơn bốn thập niên Đổi mới, Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn của khát vọng vươn lên và hiện thực hóa mục tiêu thịnh vượng dân tộc. Trong tiến trình đó, quốc gia đang ưu tiên đẩy mạnh chuyển đổi số, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đồng thời tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và triển khai chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài một cách chiến lược. Vì vậy, để nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia, cần triển khai các giải pháp theo tiếp cận hệ sinh thái giáo dục số – nhằm kết nối hiệu quả chuỗi giá trị giữa các thành tố của hệ thống giáo dục, doanh nghiệp và xã hội. Đây chính là hướng đi có tính nền tảng để gia tăng sức mạnh tri thức, tính liên ngành và khả năng thích ứng của lực lượng lao động tương lai.

PV: Giáo sư có thể làm rõ hơn những đặc điểm chính của hệ sinh thái giáo dục số – một khái niệm hiện đang được quốc tế và Việt Nam rất quan tâm?

GS.TS Trần Trung: Một hệ sinh thái giáo dục số bền vững phải tích hợp được cả công nghệ, chính sách và năng lực số của người dạy và người học. Hệ sinh thái này không bị giới hạn bởi yếu tố địa lý, mà ngược lại, còn mở ra nhiều giải pháp khả thi cho các cơ sở giáo dục trong việc tăng cường khả năng học tập cho người học và cá nhân hóa nhu cầu học tập; đồng thời, cung cấp các công cụ trí tuệ nhân tạo tiên tiến và tùy biến, cho phép thực hiện hiệu quả các công tác theo dõi, giám sát, quản lý, đánh giá, cũng như thúc đẩy hoạt động tương tác và giao tiếp trên môi trường điện toán đám mây; qua đó, tập trung phát triển cộng đồng học tập và tiến tới hình thành một xã hội học tập toàn diện.

PV: Trong hệ sinh thái giáo dục số đó, đâu là những thành phần cấu thành cốt lõi và mối quan hệ giữa chúng?

GS.TS Trần Trung: Hệ sinh thái giáo dục số gồm 4 thành phần: con người (người học, người hỗ trợ, giảng viên, người tư vấn, người quản lý); hạ tầng công nghệ; nội dung – tài nguyên tâm lý, giáo dục; và môi trường thể chế, văn hóa, dịch vụ. Trong đó, công nghệ số đóng vai trò là nền tảng cốt lõi. Môi trường thể chế, văn hóa, dịch vụ có chức năng điều chỉnh các mối quan hệ giữa ba thành phần còn lại trong hệ sinh thái giáo dục số, qua đó bảo đảm sự kết nối chặt chẽ giữa các yếu tố này và duy trì sự vận hành thống nhất của toàn bộ hệ sinh thái.

PV: Thưa Giáo sư, trong quá trình phát triển giáo dục hiện nay, công nghệ mới và chuyển đổi số đang mang lại những tác động nào rõ rệt nhất?

GS.TS Trần Trung: Đổi mới giáo dục ở nước ta diễn ra trong bối cảnh hoạt động chuyển đổi số quốc gia, kinh tế số, xã hội số đạt được nhiều kết quả tích cực, lan tỏa sâu rộng đến mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa; tác động đến từng doanh nghiệp, từng người dân, làm thay đổi quan niệm kinh doanh, thói quen, hành vi tiêu dùng, sinh hoạt, học tập, làm việc; đồng thời được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Để triển khai có hiệu quả chuyển đổi số quốc gia hiện nay, trong đó chủ đề trung tâm là phát triển kinh tế số với bốn trụ cột: công nghiệp công nghệ thông tin, số hóa các ngành kinh tế, quản trị số và dữ liệu số – những yếu tố đóng vai trò là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững – thì lĩnh vực giáo dục cần giữ vai trò nòng cốt trong việc phát huy tính chủ động, sáng tạo; huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế số, xã hội số; khuyến khích sự tham gia đồng bộ của toàn hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, người dân, và đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp.

Vì vậy, chuyển đổi số trong giáo dục cần tập trung tận dụng các tiến bộ công nghệ để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong dạy học; nâng cao chất lượng và mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục; đồng thời tăng cường hiệu quả quản lý giáo dục. Việc xây dựng một nền giáo dục mở, có khả năng thích ứng trên nền tảng số, không chỉ góp phần phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số mà còn tạo điều kiện cho giáo dục trở thành động lực phát triển trung tâm. Tuy nhiên, trong bối cảnh công nghệ số phát triển nhanh chóng, Chính sự hình thành của hệ sinh thái giáo dục số đã trở thành một yếu tố then chốt, có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng đa dạng của người học.

PV: Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, việc triển khai hệ sinh thái giáo dục số ở Việt Nam cũng đối mặt với không ít thách thức. Giáo sư có thể chỉ rõ những khó khăn chính hiện nay là gì?

GS.TS Trần Trung: Tại Việt Nam, chuyển đổi số trong giáo dục đã có những bước tiến đáng kể; tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức cần được giải quyết để tạo ra sự đột phá thực sự. Một trong những thách thức lớn hiện nay là vấn đề về sự đồng bộ trong quá trình triển khai giữa các địa phương. Ở các thành phố lớn, việc áp dụng công nghệ số diễn ra khá thuận lợi; trong khi đó, tại các vùng nông thôn và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng và trang thiết bị còn nhiều hạn chế, dẫn đến khoảng cách đáng kể trong khả năng tiếp cận giáo dục số. Việc áp dụng trí tuệ nhân tạo trong cá nhân hóa học tập vẫn chưa phổ biến. So với các quốc gia tiên tiến, Việt Nam vẫn chưa khai thác một cách tối ưu tiềm năng của dữ liệu lớn trong việc phân tích và cải thiện quá trình học tập của học sinh. Bên cạnh đó, đổi mới sáng tạo trong giáo dục hiện vẫn đang đối mặt với nhiều rào cản. Một số yếu tố đáng lưu ý bao gồm: tư duy quản lý giáo dục truyền thống; sự thiếu vắng của cơ sở dữ liệu giáo dục liên thông; khả năng thích ứng còn hạn chế của đội ngũ giáo viên trước các yêu cầu mới của công nghệ số; và cuối cùng, là tình trạng đầu tư cho hạ tầng số tại các vùng khó khăn còn nhiều bất cập – tất cả vẫn đang là những trở ngại lớn cần được giải quyết một cách hệ thống và đồng bộ.

PV: Thưa Giáo sư, để nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo trong giáo dục hiện nay, chúng ta cần những mô hình hay khung tham chiếu nào cụ thể cho hệ sinh thái giáo dục số?

GS.TS Trần Trung: Theo tôi, trước hết, cần tập trung vào việc xây dựng các mô hình cấu trúc hệ sinh thái giáo dục số thích ứng với các công nghệ số, hướng tới trường học số, kinh tế số, xã hội số và công dân số. Điều này bao gồm việc phân tích cấu trúc hệ sinh thái giáo dục số bao gồm đặc điểm, thành phần và quan hệ tương tác giữa các bên; làm rõ các yếu tố thúc đẩy cũng như những rào cản trong quá trình hình thành và phát triển một hệ sinh thái giáo dục số; xây dựng khung tham chiếu về hệ sinh thái giáo dục số làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách và triển khai thực tiễn, đồng thời xác lập các tiêu chí đánh giá mức độ hoạt động của hệ sinh thái giáo dục số; xác định các tiêu chuẩn, khung năng lực số dành cho cán bộ quản lý, người dạy và người học trong hệ sinh thái giáo dục số. Ngoài ra, cần phát triển chương trình đào tạo và các khóa bồi dưỡng về phương pháp dạy học, phân tích dữ liệu và bảo mật thông tin trong hệ sinh thái giáo dục số; đánh giá hiệu quả và mức độ sẵn sàng của đội ngũ giáo viên và học sinh trong việc tiếp nhận, ứng dụng công nghệ; xây dựng các chương trình hỗ trợ hoặc can thiệp nhằm cải thiện năng suất và mức độ gắn kết trong các tổ chức thuộc hệ sinh thái giáo dục số. Đồng thời, cần tiến hành đánh giá tác động dài hạn của việc triển khai hệ sinh thái số đến năng lực cá nhân, chất lượng đào tạo, sự phát triển kinh tế – xã hội; từ đó tối ưu hóa quy trình và nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả tổng thể của toàn bộ hệ sinh thái giáo dục.

PV: Trong bối cảnh giáo dục đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, Giáo sư đánh giá như thế nào về vai trò của các nền tảng kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo và công nghệ mới trong quản trị hệ sinh thái giáo dục số?

GS.TS Trần Trung: Trong nghiên cứu hệ sinh thái giáo dục số, cần chú trọng đến việc nghiên cứu mô hình và lý thuyết dạy học trong môi trường số hóa toàn diện này. Đồng thời, việc phân tích vai trò của công nghệ số trong giáo dục – bao gồm hoạt động dạy học, hoạt động nghiên cứu và hoạt động quản lý – là hết sức cần thiết, đặc biệt trong việc đánh giá các tác động sâu rộng đến thể chế giáo dục hiện hành. Bên cạnh đó, cũng cần phân tích các nền tảng đang được sử dụng trong giáo dục số như LMS, MOOCs và hệ thống quản trị nhà trường; đồng thời, chú trọng đến thiết kế trải nghiệm người dùng trong môi trường học tập số nhằm nâng cao tính tương tác và hiệu quả học tập. Cùng với đó, việc phát triển các công cụ phân tích học tập trên hệ sinh thái giáo dục số giữ vai trò trung tâm trong tối ưu hóa quy trình dạy – học. Các công nghệ hỗ trợ như trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, điện toán đám mây, chuỗi khối (Blockchain) và dữ liệu lớn cần được khai thác hiệu quả nhằm phục vụ cho mục tiêu đồng bộ dữ liệu, cá nhân hóa học tập, cũng như tăng cường chức năng đánh giá và quản lý hệ thống giáo dục. Việc thiết kế kiến trúc hạ tầng số cần bảo đảm các yêu cầu về bảo mật, khả năng mở rộng và mức độ tương thích cao khi có sự tham gia của các chủ thể khác nhau trong hệ sinh thái. Trên cơ sở ấy, cần xây dựng mô hình lựa chọn và tích hợp các giải pháp công nghệ phù hợp với bối cảnh địa phương, năng lực tài chính và mục tiêu phát triển giáo dục đặc thù của từng khu vực hoặc đơn vị. Cuối cùng, một nhiệm vụ không kém phần quan trọng là xây dựng bản đồ công nghệ. giúp định hướng từng bước triển khai các giải pháp công nghệ theo lộ trình chiến lược, tránh tình trạng chồng chéo, lãng phí nguồn lực và đảm bảo tính hiệu quả, bền vững trong quản trị hệ sinh thái giáo dục số.

PV: Thưa Giáo sư, trong hệ sinh thái giáo dục số, ngoài công nghệ và thể chế, còn có yếu tố con người – cụ thể là yếu tố tâm lý, hành vi học tập và sức khỏe tinh thần. Giáo sư đánh giá như thế nào về vai trò của khoa học tâm lý trong đổi mới sáng tạo bền vững hiện nay?

GS.TS Trần Trung: Tác động của mạng xã hội và công nghệ trong hệ sinh thái giáo dục số đến nhận thức, hành vi và sức khỏe tâm thần của con người là một trong những chủ đề nghiên cứu được quan tâm sâu sắc trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh đó, khả năng thích ứng của con người với việc sử dụng công nghệ số trong quá trình học tập và lao động cũng cần được xem xét một cách toàn diện. Việc xác định các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đánh giá, chẩn đoán và can thiệp đối với các rối loạn phát triển thần kinh, đồng thời hỗ trợ quá trình định hướng và thích ứng học tập, nghề nghiệp trong bối cảnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo và công nghệ số ngày càng gia tăng, là hết sức cần thiết. Ngoài ra, năng lực và các đặc điểm của người học và người dạy – bao gồm học sinh, sinh viên, giáo viên và giảng viên – trong việc sử dụng trí tuệ nhân tạo và môi trường trực tuyến vào hoạt động học tập và công việc (đào tạo, giảng dạy) cần được đánh giá một cách cụ thể và khách quan. Song song với đó, các thách thức về mặt đạo đức trong việc sử dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, đặc biệt trong các hoạt động thực hành tâm lý như đánh giá, tham vấn và trị liệu,… cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về mặt nghiên cứu và điều chỉnh chính sách. Các vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần của con người trong thời đại số cần được nhìn nhận như một yếu tố nền tảng ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục và chất lượng sống nói chung. Vì vậy, cần thúc đẩy việc phát triển các ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo trong hệ sinh thái giáo dục số để hỗ trợ công tác sàng lọc, chẩn đoán và điều trị các rối loạn tâm thần, qua đó góp phần thiết thực vào mục tiêu đổi mới sáng tạo bền vững trong giáo dục và phát triển con người.

PV: Ở cấp độ chính sách và quản lý, theo Giáo sư, Việt Nam cần thực hiện những giải pháp gì để hệ sinh thái giáo dục số có thể phát triển thực chất, bền vững và hội nhập quốc tế?

GS.TS Trần Trung: Cơ chế và quy trình quản trị đổi mới sáng tạo ở cấp độ nhà trường cũng như toàn hệ thống giáo dục cần được thiết kế một cách đồng bộ và chiến lược. Năng lực quản trị số là yếu tố then chốt để thúc đẩy và lan tỏa văn hóa đổi mới sáng tạo trong các cơ sở giáo dục. Việc thiết kế chính sách và khung đánh giá (KPI) cho các hoạt động đổi mới sáng tạo – bao gồm cả các chỉ số về chuyển đổi số, hợp tác và nghiên cứu liên ngành – là yêu cầu cấp thiết nhằm hiện thực hóa các mục tiêu phát triển. Bên cạnh đó, cần làm rõ cơ chế hợp tác giữa khu vực nhà nước (đặc biệt là các cơ sở giáo dục công lập) với khối tư nhân (startups, doanh nghiệp công nghệ) trong quá trình xây dựng và vận hành hệ sinh thái giáo dục số, đồng thời thúc đẩy việc phát triển các mô hình hợp tác đa bên trong hệ sinh thái này.

Việc nghiên cứu và tổng kết những mô hình công nghệ giáo dục (EdTech) đã thành công, cùng với việc xác định các yếu tố cốt lõi dẫn đến đổi mới sáng tạo, sẽ giúp hình thành các hình thức đầu tư, tài trợ và cơ chế chia sẻ lợi ích một cách hiệu quả trong hệ sinh thái giáo dục số. Đặc biệt, bảo đảm công bằng trong tiếp cận hệ sinh thái số đối với các nhóm có nền tảng văn hóa đa dạng là một nguyên tắc cần được tôn trọng. Hệ sinh thái số, trong trường hợp này, có vai trò thiết yếu trong việc mở rộng khả năng tiếp cận giáo dục cho các nhóm yếu thế, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa. Việc phát triển các hình thức học tập đa dạng cũng cần được đẩy mạnh nhằm thúc đẩy giáo dục suốt đời trên phạm vi toàn xã hội. Đồng thời, cần thiết lập cơ chế chia sẻ tài nguyên giáo dục mở, xây dựng cộng đồng học tập trực tuyến, và từng bước giải quyết khoảng cách số giữa các khu vực, bảo đảm tính công bằng và bao trùm trong cơ hội học tập cho mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học thần kinh nhận thức và tâm lý học nhận thức trong giáo dục và quản lý đang mở ra nhiều triển vọng mới. Việc nghiên cứu quá trình nhận thức của con người, cũng như khả năng tích hợp với học máy (machine learning), có ý nghĩa quan trọng trong thiết kế các hệ thống học tập thông minh. Sự linh hoạt của não bộ và năng lực nhận thức sau tổn thương hoặc sang chấn là nền tảng để phát triển các phương pháp hỗ trợ thích ứng học tập phù hợp trong bối cảnh số. Đồng thời, cần tiếp tục phân tích cấu trúc và cơ chế hình thành năng lực trong môi trường giáo dục số; nghiên cứu các yếu tố như văn hóa học đường trong thời đại số, bản chất của tri thức trong kỉ nguyên số, và yêu cầu đảm bảo công bằng, bình đẳng trong giáo dục số.

Phát triển các phương pháp đánh giá năng lực mới trên nền tảng hệ sinh thái giáo dục số là một hướng đi quan trọng, đồng thời cần xây dựng bộ chỉ số đánh giá toàn diện về hoạt động đổi mới sáng tạo, hiệu quả ứng dụng công nghệ và mức độ hợp tác trong môi trường giáo dục. Việc sử dụng phân tích dữ liệu lớn để theo dõi, dự báo xu hướng học tập, năng lực và nhu cầu thị trường lao động sẽ góp phần nâng cao chất lượng quản trị và điều hành. Ngoài ra, các yếu tố như sự gắn kết, xung đột, hỗ trợ xã hội, bầu không khí tâm lý, hành vi công dân trong học tập trên nền tảng hệ sinh thái số cũng cần được nghiên cứu thấu đáo. Đặc biệt, cần quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động và sức khỏe của người lao động nói chung – và đội ngũ giáo viên, giảng viên nói riêng – trong bối cảnh số hóa; trong đó bao gồm cả các vấn đề như căng thẳng, kiệt sức, và chất lượng của các mối quan hệ xã hội trong điều kiện tiếp cận đơn chiều, nằm ngoài hệ sinh thái số.

Trong bối cảnh đó, để đạt được các chỉ tiêu của Chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2021–2030, hướng tới 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước, nhất thiết cần có những đột phá mang tính chiến lược. Trong đó, đột phá về phát triển giáo dục, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chính là con đường tất yếu để thực hiện những bước nhảy vọt, rút ngắn khoảng cách với các quốc gia phát triển. Đây không chỉ là điều kiện tiên quyết, mà còn là thời cơ mang tính lịch sử để Việt Nam vươn lên phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỉ nguyên mới. Việc kiến tạo một môi trường hệ sinh thái giáo dục số sẽ giúp khai thác hiệu quả chuỗi giá trị trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phát huy các thành tựu đổi mới sáng tạo đã đạt được, tận dụng lợi thế cạnh tranh, vượt qua thách thức, và góp phần hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

PV: Trân trọng cảm ơn thầy./.

Vân An

Bạn đang đọc bài viết Đổi mới sáng tạo theo hệ sinh thái giáo dục số: Từ tư duy chính sách đến chiến lược hành động tại chuyên mục Khoa học giáo dục và xã hội của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn

 

Hội thảo quốc tế

Hội thảo quốc gia

Phòng, chống COVID-19