Kinh nghiệm từ phong trào Bình dân học vụ đến thực hiện đổi mới giáo dục và xây dựng xã hội học tập trong bối cảnh hiện nay

TS. Lê Thị Mai Hoa, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương

1. Thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh tranh chiến lược, xung đột diễn ra dưới những hình thức mới và gay gắt hơn. Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…diễn biến nghiêm trọng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang là hai xu thế lớn, chi phối sâu sắc tiến trình phát triển của nhân loại. Phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới; kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc có ảnh hưởng lớn đến phương thức tăng trưởng, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư; chuyển dịch từ năng lượng truyền thống sang năng lượng tái tạo, năng lượng xanh sẽ là xu thế rõ nét hơn trong thời kỳ tới. Học tập suốt đời chính là chìa khóa của thế kỷ XXI, vượt xa hơn sự phân chia truyền thống giữa giáo dục ban đầu và giáo dục thường xuyên. Sự cần thiết phải nhìn nhận lại xu hướng giáo dục toàn cầu, trong đó có yêu cầu các nền giáo dục buộc phải chuyển dịch theo hướng mở và học tập suốt đời, các xã hội cần thiết phải phát triển theo hướng trở thành xã hội học tập. Nhiệm vụ thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập đã trở thành một hướng đi tất yếu của mọi quốc gia để bảo đảm sự phát triển thịnh vượng, nhân văn, bền vững.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ra đời tác động mạnh mẽ, sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của các quốc gia trên thế giới; tác động đến nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh trong đời sống xã hội, trong đó có giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ. Với sự tổng hòa, kế thừa và sáng tạo một cách hoàn hảo khi kết hợp các công nghệ lại với nhau, để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất xuất trên cơ sở tối ưu hóa mọi hoạt động của con người và máy móc, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học với những đặc trưng gắn liền với những đột phá chưa từng có về công nghệ, liên quan đến kết nối Internet vạn vật, điện toán đám mây, công nghệ in 3D, công nghệ cảm biến, thực tế ảo…đã làm cho giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ là những đối tượng chịu tác động trực tiếp của cuộc Cách mạng công nghiệp này với cạnh tranh về chất lượng nguồn nhân lực, được xác định là cốt lõi, quyết định cơ hội phát triển của mỗi nước.

Để có thể thích ứng, Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới cần phải tích cực tìm hướng đi mới, áp dụng chuyển đổi số trong vận hành của toàn hệ thống, điều chỉnh với một thực tế mới nhằm duy trì khoảng cách xã hội; hình thành nền kinh tế tri thức, xã hội tri thức; thúc đẩy đổi mới giáo dục, cung cấp dịch vụ giáo dục, đào tạo bảo đảm chất lượng, phát triển phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, là đột phá quan trọng hàng đầu, là lực lượng chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Trước bối cảnh đó, để xây dựng, phát triển giá trị văn hoá, giá trị con người Việt Nam, thì mỗi người dân chúng ta dù không muốn nhưng bắt buộc phải trở thành công dân toàn cầu có đầy đủ các kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, trình độ ngoại ngữ, tác phong lao động, kỷ luật lao động…để tạo dựng thế hệ nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao, có tri thức cao, có trình độ cao đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao,...

2. Từ những bài học kinh nghiệm của phong trào “Bình dân học vụ”, phong trào phát triển theo đ­ường lối quần chúng đ­ược đông đảo quần chúng tham gia, dựa vào sức dân là chính để có thêm các điều kiện tổ chức lớp học với chính sách “cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền” đưa đến thành tựu xoá nạn mù chữ. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục nước nhà, một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân được xây dựng trên 3 nguyên tắc “Dân tộc, khoa học, đại chúng”, giúp cho dân trí được nâng cao, mở lối cho tư tưởng cách mạng thấm nhuần vào quần chúng, nền tảng đầu tiên, căn bản nhất để cách mạng Việt Nam vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao mới, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong công cuộc đổi mới đất nước ngày hôm nay một trong những hướng đi đúng đắn được lựa chọn để làm giàu vốn tri thức, lan tỏa mạnh mẽ phong trào học tập trong cả nước, hun đúc ý chí tự cường, nuôi dưỡng ý chí vươn lên sánh vai với các cường quốc, phát huy sức mạnh con người Việt Nam, tạo tiền đề cho đổi mới sáng tạo, chỉ có con đường học tập; người lớn có giáo dục suốt đời, trẻ em có giáo dục phổ cập, giáo dục bắt buộc, việc học tập được tổ chức ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi hình thức, chính quy, không chính quy và phi chính quy. Người người học tập, tự học tập, học thường xuyên, học suốt đời theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mới là con đường giúp chúng ta bắt kịp, tiến cùng, bứt phá và vượt lên chính chúng ta và thế giới, là cơ sở quan trọng để xây dựng Việt Nam thành xã hội học tập, xã hội tri thức, hình thành thế hệ công dân có đủ trí tuệ, có chuyên môn, ý thức, thái độ, hành vi tốt.

Thứ nhất, Để hiện thực hóa mục tiêu đột phá phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên giàu mạnh, hùng cường, các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Đổi mới mạnh mẽ tư duy, thống nhất nhận thức về đổi mới giáo dục, đào tạo, chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và lợi ích của học tập suốt đời, là con đường tất yếu để mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng phát triển bền vững, thích ứng với những thay đổi của cuộc sống và xã hội, đáp ứng kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị tạo sự đồng thuận, thống nhất, tin tưởng, ủng hộ của các tầng lớn nhân dân trong việc đẩy mạnh, đa dạng hóa hình thức thông tin, tuyên truyền về mục tiêu, yêu cầu, nội dung của đổi mới giáo dục, đào tạo, đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và xây dựng xã hội học tập. Mỗi tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị và mỗi nhà trường chủ động, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền, giáo dục hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng về đổi mới giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Triển khai toàn diện, sâu rộng và hiệu quả phong trào đẩy mạnh học tập suốt đời, đưa văn hóa học tập đến với mỗi gia đình, mỗi dòng họ, gắn với phong trào phổ cập, nâng cao kiến thức số trong cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên và Nhân dân, khơi dậy tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, phát huy trí tuệ Việt Nam, phát triển vững chắc gia đình học tập, dòng họ học tập, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.

Thứ hai, Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản, điểm nghẽn, giải phóng nguồn lực đang cản trở sự phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và xây dựng xã hội học tập. Khẩn trương nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật về học tập suốt đời, nhằm tạo khung pháp lý hiệu lực, hiệu quả để thực hiện thành công các mục tiêu về đảm bảo cho mọi người nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy cơ hội học tập thường xuyên, học tập suốt đời, tiếp cận công nghệ thông tin, dịch vụ số.

Ban hành Khung năng lực số cho người học với các kỹ năng, kiến thức cần thiết để giúp người học có thể sử dụng công nghệ số hiệu quả trong học tập, trở thành những công dân toàn cầu, làm chủ trong công nghệ, công việc và cuộc sống; có năng lực cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế, có cơ hội tiếp cận, khuyến khích phát triển các kỹ năng phù hợp trong bối cảnh số hóa. Đồng thời, đảm bảo tính nhất quán và kết nối, tương thích, khoa học, hiện đại, đồng bộ, liên thông, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế với hệ thống văn bản pháp luật hiện hành trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và các lĩnh vực có liên quan (đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế..).

Thứ ba, Phát triển trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, đào tạo theo chuẩn quốc tế, chú trọng giáo dục vì sự phát triển bền vững. Xây dựng một số cơ sở giáo dục đại học số, trung tâm đào tạo tiên tiến, đào tạo trực tuyến, phát triển hệ thống giáo dục mở và học tập suốt đời, tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về công nghệ số năng động, sáng tạo, chất lượng cao. Các nhà trường có kế hoạch phát triển đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ kỹ thuật và công nghệ then chốt; có các chương trình đào tạo tài năng từ nguồn học sinh, sinh viên để có trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật hàng đầu ở các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực trọng yếu hiện nay như: trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế số. Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin; áp dụng trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý, quản trị, điều tra phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, tổ chức các hoạt động giáo dục và phát triển các nền tảng công nghệ số, công nghệ giáo dục, hạ tầng số, viễn thông, internet hiện đạ,i kết nối an toàn bền vững; khai thác nguồn tài nguyên giáo dục mở, kho học liệu số dùng chung. Thúc đẩy hệ sinh thái số trên các lĩnh vực.

Thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo giữa các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, các viện nghiên cứu, nhà trường, các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, công nghệ với các doanh nghiệp để đầu tư, khai thác những công trình khoa học, những thành tựu đột phá trong lĩnh vực nghiên cứu về văn hóa, giáo dục, lịch sử Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm bản sắc dân tộc, xây dựng các giá trị văn hóa mới, phù hợp với thời đại; khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, tự hào dân dộc với tinh thần đam mê tìm tòi cống hiến cho Tổ quốc, phục vụ nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học, trình độ đào tạo; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, thúc đẩy xã hội học tập và học tập suốt đời. Giáo dục phải phục tùng đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, góp phần đào tạo ra được những người lao động mới, có lòng yêu nước nồng nàn, “trung với nước, hiếu với dân”, có đạo đức cách mạng trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, trong sạch, giản dị, có tri thức và sức khoẻ để trở thành những người chủ tương lai của đất nước, những công dân mới. kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên.

Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, trí thức, nhà khoa học cần tiếp tục nỗ lực thực hiện cho được trách nhiệm, sứ mệnh của mình trong giai đoạn cách mạng mới, gia tăng mạnh mẽ đóng góp, tham góp, đề xuất, hiến kế cho Đảng, Nhà nước những đột phá phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia như một nguồn cảm hứng, một động năng mới với tâm huyết, trách nhiệm cao đối với sự phát triển của đất nước, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược, đưa nước ta đến năm 2045 là nước phát triển, có thu nhập cao, sánh vai với các cường quốc năm châu. Theo như mong muốn của Tổng Bí thư “các trí thức, nhà khoa học phải là lực lượng nòng cốt để đưa Việt Nam đứng vào nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo; nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các cường quốc công nghệ vào năm 2030…”.

Thứ tư, Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động các thiết chế giáo dục trong và ngoài nhà trường, các thiết chế văn hóa, chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân, xây dựng môi trường học tập thật sự lành mạnh. Phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa gia đình, nhà trường, xã hội thành một khối đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện để mọi người được tiếp cận với tri thức, giáo dục, học tập, học thường xuyên, học suốt đời, phù hợp với năng lực, hoàn cảnh của bản thân, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa có tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế.

Thứ năm, Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Khuyến khích các cơ sở giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục, đào tạo, trung tâm đổi mới sáng tạo, tiên tiến trên thế giới. Hợp tác, kết nối, phát triển mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm với các tổ chức quốc tế và các nước có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, học tập suốt đời, học tập từ xa, học tập trực tuyến, xây dựng xã hội học tập, đặc biệt là các nước trong cộng đồng ASEAN. Tích cực, chủ động tham gia mạng lưới “Thành phố học tập toàn cầu” (GNLC) do Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) điều hành.

Có cơ chế, chính sách đột phá, đặc thù thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học ở nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ cao, có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và đào tạo nguồn nhân lực về đầu tư trí tuệ, nguồn lực, giảng dạy, nghiên cứu, làm viêc và sinh sống. Khuyến khích, thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam. Tăng cường đưa tiếng Việt và văn hoá Việt Nam ra nước ngoài. Nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.

Dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học, quý trọng hiện tài; nhiều gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư đã coi việc học, xây dựng xã hội học tập là một nét đẹp văn hóa, một truyền thống quý báu cần giữ gìn và phát huy; đội ngũ ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, trí thức, nhà khoa học tâm huyết, yêu nghề, sẵn sàng hy sinh, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi thách thức, để cách mạng Việt Nam vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao mới, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dẫn dắt sự phát triển của xã hội, định hình nên xã hội tương lai. Để thực hiện tốt di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự học, tạo chuyến biến mạnh mẽ về chất, thực hiện thành công công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo, tạo nguồn nhân lực có tri thức, kỹ năng chuyên môn, kĩ thuật, ứng dụng công nghệ và có khả năng hòa nhập xã hội trở thành công dân toàn cầu, công dân số, sáng tạo, đổi mới và thực hiện mục tiêu cam kết với hòa bình, bảo đảm quyền con người và hướng tới phát triển bền vững. Được chúng ta xác định là hướng đi đúc rút từ bài học kinh nghiệm của phong trào “Bình dân học vụ xưa” vẫn còn nguyên giá trị và vận dụng phù hợp với thực tiễn bối cảnh hiện nay với việc triển khai mạnh mẽ, sâu rộng, hiệu quả các phong trào “Bình dân học vụ số”, “Học tập số”, “Đẩy mạnh học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập”… nhất định sẽ giúp đất nước ta vững tiến đi vào kinh tế tri thức, tham gia vào Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên vươn mình, kỷ nguyên giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Tài liệu tham khảo

Hồ Chí Minh (1990). Về vấn đề giáo dục. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1990.

Phạm Tất Dong (2012). Khuyến học. NXB Dân trí.

Phạm Tất Dong (chủ biên, 2010). Giáo dục Việt Nam 1945-2010, tập 1. NXB Giáo dục Việt Nam.

Ban Khoa giáo Trung ương (2006). Một số văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác khoa giáo, giáo dục - đào tạo. NXB Chính trị quốc gia.

Phạm Tất Dong (2017). Đổi mới tư duy giáo dục xây dựng xã hội học tập (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn). NXB Dân trí.

Phạm Tất Dong (2018). Học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, xu thế phát triển tất yếu. NXB Dân trí.

Nguyễn Thị Doan (2023). Xây dựng xã hội học tập trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam. NXB Dân trí.

Lê Thị Mai Hoa (2017). Nhìn lại 10 năm thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Tạp chí Tuyên giáo, số 3.

Lê Thị Mai Hoa (2018). Xây dựng mô hình công dân học tập trong xã hội học tập, đề xuất mô hình công dân học tập ở Việt Nam. Tạp chí Tuyên giáo, số 1.

Lê Thị Mai Hoa (2021). Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương về tự học và học tập suốt đời.  Hội đồng lý luận Trung ương.

Lê Thị Mai Hoa (2021). Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương về tự học và học tập suốt đời - vận dụng vào công tác của nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục. Hội thảo Khoa Học Con đường tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh Bài học và liên hệ bản thân, Hội Khuyến học Việt Nam, Hà Nội.

Lê Thị Mai Hoa (2015). Thành tựu công tác phổ cập giáo dục và xóa mù chữ từ phong trào Bình dân học vụ. Trang tin Hội đồng Lý luận Trung ương.