So sánh chính sách quản lí dạy thêm ở Việt Nam với Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản và Úc

Áp lực học tập và chi phí học thêm vẫn là vấn đề chung ở nhiều nước, đặc biệt là ở châu Á. Các chính phủ đang nỗ lực cải cách để giảm bớt gánh nặng này và đảm bảo công bằng trong giáo dục. Bài viết so sánh để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt trong chính sách quản lí hoạt động dạy thêm của Việt Nam với một số nước phát triển.

Việc dạy thêm, học thêm là một vấn đề phổ biến trong hệ thống giáo dục của nhiều quốc gia, đặc biệt là ở các nước châu Á như Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Dưới đây là bảng so sánh chi tiết về chính sách đối với việc dạy thêm, học thêm của giáo viên phổ thông ở các nước này, dựa trên các tài liệu công bố và thông tin chính thức của các chính phủ hoặc các nghiên cứu đã được công bố.

Bảng so sánh chính sách dạy thêm, học thêm của giáo viên phổ thông

Các quốc gia có cách tiếp cận khác nhau đối với việc dạy thêm, học thêm, có thể chia thành ba nhóm:

Nhóm thứ nhất: không khuyến khích, tập trung vào giáo dục chính khoá, điển hình là Úc. Tương tự, dù không khuyến khích nhưng việc dạy thêm cũng không bị cấm ở Hoa Kỳ;

Nhóm thứ hai, khuyến khích việc học thêm và do đó là hoạt động dạy thêm nhưng có kiểm soát điển hình là Singapore;

Nhóm thứ ba, hạn chế nghiêm ngặt như Hàn Quốc và Trung Quốc với một số chính sách quản lí chặt chẽ như không được dạy học sinh chính khoá, giáo viên công lập không được dạy thêm ngoài giờ, các trung tâm dạy thêm bị kiểm soát chặt chẽ.

Việt Nam gần đây đã có những quyết định kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động dạy thêm (thông qua Thông tư 29/2024/TT-BGDĐT ngày 30/12/2024, có hiệu lực từ ngày 14/2/2025), nhằm đảm bảo thực hiện tốt Chương trình Giáo dục phổ thông, giảm áp lực học tập cho học sinh, tập trung vào mục tiêu phát triển toàn diện, tạo hành lang hạn chế các tác động tiêu cực của hoạt động dạy thêm-học thêm: ép buộc, kém hiệu quả, gây áp lực, tăng chi phí học tập, không đảm bảo đạo đức nghề nghiệp. Như vậy, có thể cho rằng Việt Nam thuộc nhóm thứ ba, có chính sách quản lí chặt chẽ hơn hoạt động dạy thêm-học thêm tương tự như Hàn Quốc, Trung Quốc.

Lương Ngọc

Tài liệu tham khảo:

Australian Government (2023). Education policies in Australia. https://www.education.gov.au

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2024). Thông tư 29/2024/TT-BGDĐT quy định về dạy thêm, học thêm. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-thong-tu-so-29-2024-tt-bgddt-quy-dinh-ve-day-them-hoc-them-119250104110707832.htm

Kim, J. (2021). Private tutoring and educational inequality in South Korea. Journal of Education Policy, 36(2), 123-145.

Lee, S., & Park, H. (2020). The impact of hagwon on Korean education. Asian Journal of Education, 25(3), 45-60.

Ministry of Education, Singapore. (2023). Guidelines for private tutoringhttps://www.moe.gov.sg

Ministry of Education, Culture, Sports, Science and Technology, Japan. (2023). Regulations on juku and private tutoringhttps://www.mext.go.jp

Nguyen, T. (2022). The challenges of private tutoring in Vietnam. Vietnamese Journal of Education, 15(1), 78-92.

Smith, R. (2021). Education systems in Australia: A comparative analysis. Australian Educational Review, 40(4), 210-225.

Tan, L. (2022). Private tutoring and academic achievement in Singapore. International Journal of Educational Development, 50, 112-120.

Wang, Y. (2022). Reforming private tutoring in China: Challenges and opportunities. Chinese Education Review, 18(2), 89-104.

Yamamoto, H. (2022). The role of juku in Japanese education. Japan Journal of Educational Studies, 30(1), 34-50.

Zhang, X. (2023). Regulating private tutoring in China: Policies and outcomes. Education and Society, 41(3), 156-170.

 

Bạn đang đọc bài viết So sánh chính sách quản lí dạy thêm ở Việt Nam với Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản và Úc tại chuyên mục Khoa học giáo dục và xã hội của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn

Hội thảo quốc tế

Hội thảo quốc gia

Phòng, chống COVID-19