Đổi mới chính sách về chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông sau Nghị quyết 29

Chất lượng giáo viên là một trong những yếu tố quan trọng làm nên giá trị giáo dục của một quốc gia. Bài viết dưới đây phân tích những thay đổi về tiêu chuẩn, năng lực đối với đội ngũ giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông theo các văn bản chính sách do Bộ GD&ĐT ban hành và lý giải sự cần thiết của hệ thống tiêu chuẩn đó đối với giáo dục Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

Tại Việt Nam, quy định về tiêu chuẩn, năng lực của giáo viên phổ thông được sử dụng làm cơ sở để (1) Giáo viên tại các cơ sở giáo dục phổ thông tự đánh giá; (2) Các cơ sở giáo dục phổ thông tự đánh giá giáo viên của thuộc cơ sở giáo dục đó; (3) Các cơ quan quản lý nhà nước xây dựng chính sách phát triển đội ngũ nhà giáo; (4) Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên xây dựng chương trình/kế hoạch đào tạo giáo viên.

Sự thay đổi trong các quy định về chuẩn mực và trình độ giáo viên không chỉ tác động đến các trường học mà còn là cơ sở để các bên liên quan đánh giá hiệu quả giáo dục. Trên cơ sở câu hỏi “Chính sách về chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông đã thay đổi như thế nào trước và sau đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở Việt Nam?”, nghiên cứu của Duc, C.N và cộng sự (2022) đã thu thập các văn bản chính sách quốc gia liên quan đến chuẩn nghề nghiệp và/hoặc phát triển năng lực của giáo viên phổ thông do Bộ GD&ĐT vào các năm 2007, 2009 và 2018. Để tìm hiểu quá trình thay đổi và tính liên tục theo thời gian của vấn đề này, các văn bản chính sách này đã được nêu bật ở một số khía cạnh, tức là các quy định về công chức liên quan đến giáo viên phổ thông, chuẩn nghề nghiệp giáo viên, tiêu chuẩn đánh giá nghề nghiệp giáo viên, đánh giá và xếp loại giáo viên.

Về hình thức văn bản

Điểm khác biệt dễ thấy giữa các quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên ban hành trước và sau đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là tính thống nhất của các văn bản đối với các cấp học khác nhau. Trước khi đổi mới, trong cả hai văn bản về chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học (Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT) và về tiêu chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học (Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT) không thấy có sự thống nhất về tiêu chuẩn, số lượng tiêu chí, cách đánh giá và xếp loại giáo viên. Tuy nhiên, với thông tư hiện hành (Thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT), giáo viên tiểu học và giáo viên trung học có hệ thống tiêu chí đánh giá chung với số lượng tiêu chí và cách đánh giá, xếp loại tương đương nhau. Ngoài ra, các phụ lục hướng dẫn có vẻ rõ ràng hơn với hệ thống minh chứngđóng vai trò là công cụ đánh giá hiệu quả năng lực của giáo viên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiện thực hóa các tiêu chuẩn nghề nghiệp của giáo viên.

Về các tiêu chuẩn nghề nghiệp giáo viên

Trước khi đổi mới giáo dục, chuẩn nghề nghiệp giáo viên được xây dựng theo hướng tiếp cận kiến ​​thức - kỹ năng nhằm đào tạo giáo viên cũng như nghiên cứu, đề xuất và thực hiện chính sách. Tuy nhiên, với mục đích chính là đánh giá năng lực giáo viên làm cơ sở cho công tác đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu phát triển chuyên môn, đổi mới giáo dục và các quy định về văn bản quy phạm pháp luật (Thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT), chuẩn nghề nghiệp giáo viên mới được xây dựng trên cơ sở tiếp cận phát triển năng lực và được hiểu là hệ thống các phẩm chất, năng lực mà giáo viên cần đạt được để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh trong các cơ sở giáo dục phổ thông.

Một thay đổi đáng chú ý khác là tất cả các tiêu chuẩn trước khi đổi mới đều tập trung vào năng lực giảng dạy và giáo dục; tuy nhiên, trong các văn bản hiện hành, có 5 tiêu chí tập trung vào đánh giá phát triển chuyên môn giáo viên: Phẩm chất nhà giáo; Phát triển chuyên môn, nghiệp vụ; Xây dựng môi trường giáo dục; Phát triển mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội; Sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc, ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục.  Như vậy, các tiêu chuẩn về chuyên môn giáo viên đã chuyển từ nhấn mạnh vào năng lực hoàn thành công tác nhà trường của giáo viên sang tập trung vào phát triển chất lượng giáo viên một cách có hệ thống.

Về đánh giá và xếp loại giáo viên

Căn cứ theo Điều 10 Thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT về quy trình đánh giá và xếp loại kết quả đánh giá theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên, việc đánh giá, xếp loại giáo viên được thực hiện vào cuối năm học theo 03 bước:

“a) Giáo viên tự đánh giá theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên;

b) Cơ sở giáo dục phổ thông tổ chức lấy ý kiến của đồng nghiệp trong tổ chuyên môn đối với giáo viên được đánh giá theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên;

c) Người đứng đầu cơ sở giáo dục phổ thông thực hiện đánh giá và thông báo kết quả đánh giá giáo viên trên cơ sở kết quả tự đánh giá của giáo viên, ý kiến của đồng nghiệp và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của giáo viên thông qua minh chứng xác thực, phù hợp.”

So với các bộ tiêu chuẩn trước đây, minh chứngcho các tiêu chí trong bộ tiêu chuẩn hiện tại cởi mở và gợi ý hơn để các địa phương có thể phát triển minh chứngcủa riêng mình phù hợp với đặc điểm của địa phương và trường học; và giáo viên được đánh giá dựa trên đánh giá toàn diện các tiêu chí. Theo các bộ tiêu chuẩn trước đây, giáo viên được đánh giá theo bốn mức: “Kém - Trung bình - Khá - Tốt” trong khi theo bộ tiêu chuẩn hiện tại, họ được đánh giá là “Chưa đạt - Đạt - Khá - Tốt”

Đánh giá giáo viên theo tiêu chuẩn quy định tạiThông tư hiện hành năm 2018 dường như đơn giản hơn so với các tiêu chuẩn trong các Thông tư trước đây. Ví dụ, về minh chứngcho tiêu chí Đạo đức nhà giáo, Công văn số 4530/BGDĐT-NGCBQLGD ngày 2018 quy định giáo viên đạt mức “Tốt” nếu hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình với kết quả xuất sắc; các tiêu chí khác được đánh giá tương ứng với các mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, việc lựa chọn minh chứng là thiếu thực tế vì giáo viên cần phải trình bày thư cảm ơn hoặc lời khen ngợi từ cha mẹ học sinh hoặc đồng nghiệp, lãnh đạo/quản lý nhà trường, các cá nhân và tổ chức khác có đề cập đến phẩm chất đạo đức của giáo viên. Điều này rõ ràng không phải lúc nào cũng đảm bảo tính minh bạch của bằng chứng.

So sánh với tiêu chuẩn nghề nghiệp chung của giáo viên ở Singapore và Úc

Có một số điểm tương đồng và khác biệt giữa chuẩn nghề nghiệp của giáo viên phổ thông Việt Nam với chuẩn nghề nghiệp ở Úc và Singapore. Về các đặc điểm giống nhau, trước hết là ba lĩnh vực cốt lõi bao gồm kiến ​​thức chuyên môn, tổ chức các hoạt động dạy và học, và tác phong cá nhân và các giá trị nghề nghiệp. Thứ hai, các tiêu chuẩn đã bao gồm khá nhiều tiêu chí giáo viên có thể được sử dụng để đánh giá các lĩnh vực của giáo viên phổ thông. Thứ ba, mô tả các chỉ số giúp hiểu rõ thái độ và hành vi của giáo viên trong quá trình giảng dạy để làm cơ sở cho việc đánh giá.

Về sự khác biệt, số lượng tiêu chuẩn và tiêu chí khác nhau giữa các quốc gia này và các thuật ngữ mô tả các tiêu chuẩn và tiêu chí này không giống nhau (Việt Nam: 05 tiêu chuẩn và 15 tiêu chí; Úc: 03 lĩnh vực và 07 tiêu chuẩn; Singapore: 04 nhóm năng lực và 08 năng lực). Cụ thể hơn, các quy định của Việt Nam, tập trung vào các khía cạnh đạo đức, có nhiều chỉ số hướng dẫn hơn cho các biên liên quan khác nhau. So với Úc và Singapore, có thể nói rằng chuẩn nghề nghiệp của giáo viên phổ thông Việt Nam đã được xây dựng, giúp cho việc nhận biết, phân loại năng lực giáo viên dễ dàng hơn trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam.

Nhìn chung, năng lực của giáo viên phổ thông tại Việt Nam được điều chỉnh bởi nhiều quy định pháp luật và đòi hỏi sự kết hợp giữa đánh giá nội bộ và bên ngoài để đảm bảo tính khách quan và đáng tin cậy. Mặc dù việc thiết lập chuẩn nghề nghiệp giáo viên là cần thiết và đang ngày càng được cải thiện theo xu hướng quốc tế, những thách thức vẫn tồn tại do cách quản lý đào tạo lại giáo viên, vấn đề tài chính và các yêu cầu về chuyên môn chưa tương xứng với chính sách đãi ngộ. Do đó, giáo viên cần được trao quyền và hỗ trợ tối đa để họ có thể trở nên sáng tạo và chủ động hơn, từ đó đóng góp vào sự cải cách và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông.

Hồng Anh

Tài liệu tham khảo

Duc, C. N., Thi, P. N., Hoang, T. –Ngoc, Dinh, H. L., Hong, L. N., & The, T. N. (2022). A policy review of criteria and competencies for teaching staff of general education in Vietnam. Cogent Education, 9(1). https://doi.org/10.1080/2331186X.2022.2133889

Nghị quyết số 29-NQ/TW “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã được hội nghị trung ương 8 (khóa xi) thông qua. tạp chí xây dựng đảng giới thiệu toàn văn nghị quyết”

Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT ban hành quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học. Truy cập từ https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-quyet-29-NQ-TW-nam-2013-doi-moi-can-ban-toan-dien-giao-duc-dao-tao-hoi-nhap-quoc-te-212441.aspx

Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ban hành quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên trung học phổ thông. Truy cập từ https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-duc/Quyet-dinh-14-2007-QD-BGDDT-quy-dinh-Chuan-nghe-nghiep-giao-vien-tieu-hoc-21063.aspx

Thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT ban hành quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông. Truy cập từ https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-duc/Thong-tu-20-2018-TT-BGDDT-quy-dinh-chuan-nghe-nghiep-giao-vien-co-so-giao-duc-pho-thong-392701.aspx

Công văn số 4530/BGDĐT-NGCBQLGD về việc hướng dẫn thực hiện Thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT ngày 22/8/2018 ban hành quy định chuẩn giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông. Truy cập từ https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Giao-duc/Cong-van-4530-BGDDT-NGCBQLGD-2018-huong-dan-thuc-hien-Thong-tu-20-2018-TT-BGDDT-404166.aspx

 

Bạn đang đọc bài viết Đổi mới chính sách về chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông sau Nghị quyết 29 tại chuyên mục Chính sách và thực tiễn giáo dục của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn

Hội thảo quốc tế

Hội thảo quốc gia

Phòng, chống COVID-19