Khoảng cách hiệu suất thị trường lao động và vai trò của giáo dục trung cấp nghề tại trường trung học cơ sở tại Hàn Quốc

Nghiên cứu của hai tác giả Kyung Hee Park và Jinyoung Yu khám phá cơ chế hoạt động của thị trường lao động bằng cách xác định vai trò của giáo dục trung cấp nghề đối với lao động trẻ Hàn Quốc đã tốt nghiệp trung học. Để đạt được mục tiêu này, nghiên cứu tập trung vào chính sách của Trường Trung học Meister (MHS) nhằm thúc đẩy vị trí dẫn đầu của trường này trong giáo dục trung học dạy nghề ở Hàn Quốc.

Ở các nước châu Á, tâm lý ưa thích vào đại học đã dẫn đến cơn sốt thi vào trường trung học phổ thông. Ở Hàn Quốc, đã có một cơn sốt lớn trong việc học trung học, và cuối cùng, tỷ lệ học sinh đi học ở cấp học này đạt 71,5% vào năm 2007, vượt quá tỷ lệ việc làm. Từ hiện tượng này đã làm mất cân đối cung cầu nhân lực ngành, làm suy yếu năng lực cạnh tranh quốc gia. Theo đó, Chính phủ Hàn Quốc đã tìm ra giải pháp cho vấn đề chênh lệch kỹ năng trong đào tạo nguồn nhân lực tại các trường trung học dạy nghề và cơ sở giáo dục. Giải pháp này được trình bày trong “Dự án đa dạng hóa trường trung học 300” và đề xuất “Kế hoạch phát triển trường trung học Meister kiểu Hàn Quốc (MHS)” như một mô hình vai trò mới cho các trường trung học dạy nghề. Mục đích của dự án là thúc đẩy sự đa dạng hóa, chuyên môn hóa và tự chủ của giáo dục trung học để bổ sung tính đồng nhất trong khi vẫn duy trì khuôn khổ cơ bản của hệ thống giáo dục trung học hiện hành.

Mục đích cốt lõi của việc giới thiệu MHS là thúc đẩy ngành công nghiệp lõi của Hàn Quốc và duy trì tính liên tục trong phát triển công nghệ bằng cách cung cấp tầm nhìn và hy vọng để sinh viên có thể phát triển thành chuyên gia trong ngành mong muốn tùy theo năng khiếu và tài năng của họ. Dự án này nhằm mục đích nuôi dưỡng lực lượng lao động chuyên nghiệp có thể được đưa vào lĩnh vực này ngay sau khi tốt nghiệp bằng cách vận hành một chương trình giảng dạy phù hợp với nhu cầu công nghiệp trong ba năm ở trường trung học.

Kết quả của MHS đã ghi nhận tỷ lệ có việc làm hơn 90% trong vòng 5 năm qua kể từ lứa học sinh tốt nghiệp đầu tiên. Kể từ đó, kết quả học tập của học sinh tốt nghiệp MHS về tỷ lệ có việc làm và các chỉ số đảm bảo việc làm luôn ở mức khả quan hơn so với các trường trung cấp dạy nghề phổ thông. Tuy nhiên, người ta chỉ ra rằng những học sinh MHS có điều kiện gia đình tốt, chẳng hạn như trình độ học vấn của cha mẹ, có sự khác biệt về hiệu suất thị trường lao động so với những học sinh tốt nghiệp trung học dạy nghề khác. N. Kim (2019) chỉ ra rằng tỷ lệ việc làm năm 2013, khi học sinh MHS mới tốt nghiệp, có thể tạm thời được đánh giá ở mức rất cao so với các trường trung học khác. Những nghiên cứu này có nghĩa là các tác động chính sách của MHS trong giáo dục trung học nghề có liên quan đến một số yếu tố khác nữa, ảnh hưởng lớn đến thành tích của học sinh ngay cả khi đã có những tác động về mặt chính sách.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trường học là một công cụ chính hỗ trợ xã hội công nghiệp và đã phát triển để đáp ứng những thay đổi xã hội trong khi vẫn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với thị trường lao động. Nghiên cứu này nhằm kiểm tra liệu có sự khác biệt trong hiệu suất lao động của học sinh tốt nghiệp trung học do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế xã hội của cha mẹ các em hay không và liệu có sự khác biệt về “hiệu ứng trường học” giữa học sinh tốt nghiệp MHS và học sinh tốt nghiệp trung học dạy nghề chính quy hay không.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này đã sử dụng bộ dữ liệu công khai từ năm đầu tiên (2016) đến năm thứ tư (2020) của Hội đồng Giáo dục và Việc làm Hàn Quốc (KEEP) do Viện Nghiên cứu Giáo dục & Đào tạo Nghề Hàn Quốc (KRIVET) với tư cách là một cơ quan chính phủ khảo sát. Những người tham gia khảo sát trong KEEP năm 2016 đang học năm thứ hai trung học, vì vậy họ đã ở độ tuổi đầu 20 vào năm 2020 (khi nghiên cưus này được tiến hành). Đồng thời, các mẫu như những người theo học đại học, thất nghiệp và tự làm chủ doanh nghiệp đã bị loại trừ. Cuối cùng, 741 (31,6%) học sinh tốt nghiệp MHS và 1.603 (68,4%) học sinh tốt nghiệp Trường trung học chuyên nghiệp (SVHS), tổng cộng 2.344 mẫu dữ liệu đã được sử dụng. Điểm chung của MHS và SVHS là tỷ lệ các môn học chuyên sâu liên quan đến ngành học cao hơn các môn học đại cương trong chương trình đào tạo, đồng thời tổ chức các lớp học thực hành để học kỹ năng nghề.

Kết quả nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra một số điểm chính sau:

Mặc dù nhóm nghiên cứu đã kiểm soát các biến về hoàn cảnh/điều kiện phụ huynh và địa điểm đặt trường học, nhưng vai trò của MHS trong trường học đã được chứng minh một cách đáng kể như một yếu tố dự báo quan trọng về hiệu suất thị trường lao động.

Kết quả hiệu suất lao động chủ quan được khẳng định một phần so với hiệu suất thực hiện khách quan. Trong số đó, sự khác biệt đáng kể tiếp tục diễn ra trong sự không phù hợp theo chiều ngang, cho thấy rằng trải nghiệm ở trường của sinh viên tốt nghiệp MHS và sự hài lòng với công việc phù hợp là rất đáng chú ý. Kỹ năng phù hợp đã được thảo luận như một yếu tố chính ảnh hưởng đến sự hài lòng và thu nhập từ công việc và đã trở thành một vấn đề toàn cầu như một yếu tố cản trở hiệu suất thị trường lao động thành công cùng với một hệ thống giáo dục trong đó quá nhiều học sinh theo học các bậc học cao.

Xét đến vai trò trường học của MHS, hiệu suất thị trường lao động có xu hướng tăng lên khi yếu tố thành tích học tập cá nhân tương tác với nhau và điều này có liên quan đến mô hình Wisconsin về lý thuyết đạt được địa vị. Cụ thể, nghiên cứu nhận thấy rằng thành tích học nghề của học sinh MHS càng cao thì mức độ hài lòng về cuộc sống càng cao, ảnh hưởng đến hiệu suất thị trường lao động. Ngoài ra, khi thành tích môn học của các khóa học nghề trung học tương tác với nhau, sự hài lòng của học sinh MHS tăng lên đáng kể, điều này cho thấy sự khác biệt về mức độ hài lòng trong cuộc sống ở trường trung học ảnh hưởng đáng kể đến đặc điểm của từng học sinh.

Vân An tổng hợp

Nguồn:

Park, K. H., & Yu, J. (2023). Labor market performance gaps and the role of secondary vocational education at meister high school in Korea. Cogent Education, 10(1). https://doi.org/10.1080/2331186x.2023.2168407

 

Hội thảo quốc tế

Hội thảo quốc gia

Phòng, chống COVID-19