Thuyết kiến tạo là một trong những lý thuyết về quá trình dạy học dựa trên tâm lý học kiến tạo nhận thức của Piaget và lý thuyết hoạt động của Vygotsky. Có nhiều quan điểm khác nhau về học tập theo chủ nghĩa kiến tạo. Tất cả các quan điểm này đều thống nhất rằng đây là phương pháp dạy học tích cực khi lấy người học làm trung tâm.
Để phương pháp dạy học theo thuyết kiến tạo thành công, giáo viên phải tạo ra các tình huống học tập kích thích hứng thú học tập của học sinh. Sự hiểu biết đó phải được người học tiếp nhận một cách tích cực, chủ động và sáng tạo. Người học phải tự mình khám phá kiến thức chứ không phải học một cách thụ động từ môi trường. Người thầy có vai trò là người hướng dẫn, dẫn dắt vấn đề giúp học sinh khẳng định tính đúng đắn. Hơn nữa, người học chỉ tiếp thu được khi kết nối kiến thức mới với kinh nghiệm sống của mình. Mối quan hệ chặt chẽ giữa kiến thức mới và kiến thức cũ được sắp xếp một cách có hệ thống, khi đó kiến thức mới có giá trị sử dụng và ghi nhớ lâu hơn. Người học tự tiếp thu kiến thức và phát triển chiều sâu kiến thức thông qua hai con đường tiếp thu và thích ứng. Sự thích nghi giúp người học tiếp thu kiến thức mới; sự đồng hóa giúp người học mở rộng và phát triển kiến thức mới.
Ở Việt Nam, định lí Sin có trong chương trình Hình học 10, bao gồm phần Cơ bản và Nâng cao (nghiên cứu ở sách giáo khoa cũ). Mặc dù định lí Sin rất quan trọng nhưng chưa có nhiều tài liệu đề cập đến cách dạy định luật Sin một cách hiệu quả. Do đó, nhóm tác giả Ngoc Giang Nguyen và Huyen Trang Pham xét sự kết hợp giữa phương pháp học tập theo thuyết kiến tạo và định lí Sin cũng như mối quan hệ giữa toán học với các lĩnh vực khác được thể hiện thông qua định luật này. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, việc dạy học định lí Sin áp dụng thuyết kiến tạo giúp phát huy nội lực của người học, góp phần phát triển năng lực.
Huyền Đức lược dịch
Nguồn: Nguyen, N. G., & Pham, H. T. (2020). Constructivist Learning and the Law of Sines in Advanced 10th Grade Geometry Textbooks in Vietnam. International Journal of Learning, Teaching and Educational Research, 19(1), 38-59. https://doi.org/10.26803/ijlter.19.1.3