Chuyển đổi hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam là một quá trình đang diễn ra. Nhu cầu hội nhập với nền kinh tế toàn cầu đã đặt Việt Nam dưới áp lực đáng kể trong việc cải thiện chất lượng hệ thống giáo dục đại học, trong đó có chất lượng quản lý và lãnh đạo hệ thống.
Dựa trên quan điểm cần nhìn nhận cách thức quản lý và lãnh đạo hệ thống giáo dục đại học trong bối cảnh cụ thể, kết quả nghiên cứu Jamil Salmi và Ly Thi Pham đã chỉ ra rằng Việt Nam vẫn còn lưu giữ nhiều khía cạnh của cách quản lý từ trên xuống và các quan điểm về cách thức quản lý hệ thống giáo dục đại học công lập chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng bởi truyền thống này. Ngoài yếu tố chính trị, một số yếu tố đã ảnh hưởng đến sự chuyển đổi này. Cụ thể: (1) Chất lượng giáo dục đại học ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, khả năng cạnh tranh quốc gia và do đó ảnh hưởng đến sự ổn định của quốc gia; (2) Những hạn chế về nguồn lực công đã kích thích sự phát triển của giáo dục đại học tư nhân và tăng cường chia sẻ chi phí trong các cơ sở giáo dục đại học công lập; (3) Chính sách mở cửa nền kinh tế đã dẫn đến sự tham gia ngày càng tăng của khu vực tư nhân và các doanh nghiệp quốc tế, kể cả trong lĩnh vực giáo dục đại học. Điều này mang lại cho mọi người nhiều sự lựa chọn thay thế hơn; (4) Sự tiến bộ của công nghệ truyền thông tạo điều kiện thuận lợi cho sự tương tác giữa các trường đại học của Việt Nam và các đối tác quốc tế cũng như giữa cộng đồng học thuật Việt Nam và các đồng nghiệp quốc tế.
Các sáng kiến của chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này, thông qua các chương trình nhằm tăng cường chất lượng đội ngũ giảng viên, chẳng hạn như Đề án 911 (để đào tạo 20.000 tiến sĩ trong và ngoài nước vào năm 2020). Ngày càng có nhiều người được đào tạo ở nước ngoài trở về Việt Nam và đảm nhận những vị trí quan trọng trong hệ thống. Mô hình quản lý hiện tại trong hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam, ở cả cấp quốc gia và cấp trường, dường như đã bộc lộ hạn chế trong một hệ thống đang thay đổi nhanh chóng. Do đó, áp lực cải cách rất mạnh, việc tự chủ đại học đi đôi với việc cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo.
Ba thập kỷ về chuyển đổi mô hình quản trị và lãnh đạo kể từ Đổi Mới đã chứng kiến xu hướng hướng tới tự chủ và cởi mở hơn, giảm bớt sự kiểm soát của nhà nước và thị trường hóa nhiều hơn. Xu hướng này phù hợp với việc doanh nghiệp hóa mô hình quản lý đã diễn ra ở các cơ sở giáo dục đại học công lập ở các quốc gia như Singapore hay Nhật Bản. Sự phát triển theo hướng phát triển giáo dục đại học tư thục và thị trường hóa giáo dục đại học chắc chắn sẽ mang lại những cải cách quản trị hơn nữa theo hướng tự chủ thể chế lớn hơn và tăng cường trách nhiệm giải trình. Việc hợp nhất các cơ quan đảm bảo và công nhận chất lượng sẽ cho phép họ đóng vai trò tích cực với tư cách là các tổ chức chuyên nghiệp. Điều này sẽ giúp khai thác tiềm năng của giáo dục đại học Việt Nam để có thể đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Quá trình này diễn ra chậm nhưng không thể đảo ngược.
Huyền Đức lược dịch
Nguồn:
Salmi, J., & Pham, L. T. (2019). Academic governance and leadership in Vietnam: Trends and challenges. Journal of International and Comparative Education (JICE), 103-118. https://doi.org/10.14425/jice.2019.8.2.103